Page 338 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 338

vùng sản xuất lúa lai và vùng trồng dâu tằm. Nông dân được
            khuyến khích hoán đổi diện tích để thuận tiện cho sản xuất và
            thâm canh; khuyến khích việc chuyển đổi các diện tích trồng lúa
            kém hiệu quả sang nuôi, trồng các loại cây, con mới thích hợp với
            điều kiện canh tác của huyện và có giá trị kinh tế cao hơn. Cây
            lúa được xác định là cây chủ lực trong cơ cấu cây trồng nên được
            chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng
            hợp, tập trung chủ yếu là khâu giống, mở rộng sản xuất giống
            lúa lai F1 ở các hợp tác xã nông nghiệp Xuân Kiên, Xuân Phương
            và tiếp tục sử dụng giống lúa lai là chủ lực trong cơ cấu giống ở
            cả 2 vụ đông xuân và vụ mùa. Riêng xã Xuân Kiên có diện tích
            sản xuất giống lúa lai F1 ở vụ xuân là 16 ha (chủ yếu là các giống
            Bắc ưu 64, Bắc ưu 903), sản lượng đạt 3 - 3,3 tấn/ha/vụ; vụ mùa
            sản xuất hạt lai F1 với diện tích 2 ha bằng giống Việt lai 20, sản
            lượng 4 tấn, đáp ứng tốt nhu cầu giống cho sản xuất nông nghiệp.

               Do được quan tâm chỉ đạo và thực hiện tốt các khâu thủy lợi
            tưới, tiêu nước, giống, thời vụ, khoa học kỹ thuật, phòng trừ sâu
            bệnh... nên mặc dù thời tiết diễn biến phức tạp, giá cả vật tư không
            ổn định, tăng cao, nhưng ngành nông nghiệp đã đạt được những
            kết quả quan trọng. Diện tích cấy lúa toàn huyện do chuyển đổi
            mục đích sử dụng sang nuôi thả thủy sản, trồng dâu và cây cảnh,
            nên có xu hướng giảm, trung bình đạt trên 12.450 ha/năm; năm
            2005 là 6.144,5ha/vụ, giảm 198,5 ha so với năm 2000. Huyện luôn
            giữ vững truyền thống thâm canh giỏi, năng suất lúa bình quân
            đạt 131 tạ/ha/năm. Năm 2005, do ảnh hưởng của gió bão nên năng
            suất chỉ đạt 113,44 tạ/ha, song bình quân năng suất lúa của huyện
            vẫn là một trong những đơn vị dẫn đầu năng suất lúa của tỉnh.
            Tổng sản lượng lương thực bình quân đạt 83.000 tấn/năm, bằng
            96% chỉ tiêu Đại hội. Giá trị thu của ngành trồng trọt bình quân
            đạt 31,6 triệu đồng/ha/năm, bằng 105% chỉ tiêu kế hoạch.

               Căn  cứ  yêu  cầu  thị  trường,  quy  hoạch  phân  vùng  của  tỉnh,
            huyện và kinh nghiệm thâm canh của xã viên, huyện đã chỉ đạo
            đẩy mạnh phát triển cây dâu tằm, đay, lạc, ngô, khoai tại các vùng
            đất  bãi  ven  sông  theo  hướng  tập  trung,  phân  vùng  và  chuyên
            canh. Cây màu lương thực, cây công nghiệp, cây rau đậu các loại
            được chú trọng phát triển theo hướng ưu tiên những cây có giá trị

                                                                             337
   333   334   335   336   337   338   339   340   341   342   343