Page 42 - LSDB xa Xuan Thanh
P. 42

đặt trên mô đất. Tượng có dáng uy nghi nhưng nhân từ, đầu
           đội mũ Thiên Quan, cổ đeo vòng Anh Lạc, mình mặc áo cà sa
           rộng, khuôn mặt đầy đặn, mắt lim dim, mày cong, ngồi theo
           thế thiền định. Một nhà sư cao tuổi đi qua ngắm pho tượng
           giây lát rồi nói: “Đây là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát”. Nhân
           dân cho đó là điềm lành đến quê hương mình nên bảo nhau
           đóng góp tranh tre dựng nơi thờ cúng.
             Tháng 5 năm Giáp Ngọ, chùa được khởi dựng, đến tháng 4
           năm Bính Ngọ niên hiệu Thành Thái thứ 18 (năm 1906) hoàn
           thành. Chùa tọa lạc trên mảnh đất có diện tích 3.000 m  tại ngã
                                                                  2
           ba Cồn (ven sông Hồng). Chùa có kiến trúc hình chữ Thượng     (1)
           (上); ở giữa là tháp chuông, hai bên tả hữu là chùa thờ Phật và
           thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh theo kiểu “Tam Sơn” hướng về Tây
           Thiên đất Phật. Trước chùa là một hồ bán nguyệt trồng hoa
           sen, ven hồ có 2 cây đại thụ cành lá sum suê xanh tốt; bên phải
           là cây bồ đề, tượng trưng cho trái tim nhân từ, nhắc nhớ con
           người giữ cho tâm hồn thanh thản trước khi bước vào cửa Phật;
           bên trái là cây gạo, thân xù xì cao vút, lá to, hoa đỏ như các vì
           sao trên bầu trời tỏa sáng. Sau chùa là dãy nhà tổ, phòng tăng,
           nhà khách, nhà hậu (bia)... và bảo tháp Giác linh Vũ Quang
           Huy. Trước nhà tổ có khoảng sân rộng diện tích 410 m . Hằng
                                                                  2
           năm, cứ đến ngày mùng 8 tháng Giêng, dân làng tổ chức lễ hội
           kỷ niệm Thành hoàng Uy linh Đại vương Phạm Quang Diệu -
           người có công phò vua giúp nước thời Lê trung hưng (hậu Lê),
           được vua phong tước vương và ban nhiều bổng lộc.

             Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào cứu
           nước nổi lên, làn sóng cách mạng lan xuống vùng đồng bằng
           hạ lưu sông Hồng. Đầu năm 1933, cơ sở cách mạng ở vùng này
           được nhen nhóm do ông Phạm Quang Lịch - Nguyên Bí thư


           (1)  Có ẩn ý Liêu Thượng, cao thượng.
                                                                        41
   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47