Page 82 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 82
Trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc vì nhiều
nguyên nhân khác nhau như bị mù, bị cụt tay..., thì có thể nhờ người khác viết
hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng đối với di
chúc đó. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của
người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Như vậy, đối với di chúc bằng văn bản có người làm chứng thì cho phép
người lập di chúc lựa chọn: ký vào bản di chúc hoặc điểm chỉ vào di chúc, mà
không bắt buộc phải ký vào bản di chúc như di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng. Sự xuất hiện của người làm chứng trở thành yếu tố quan trọng, quyết
định đến hiệu lực của di chúc trong trường hợp người lập di chúc không thể tự
viết được bản di chúc và di chúc đó không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chứng thực. Những người làm chứng cho việc lập di chúc phải tiến hành đồng
thời hai hành vi: Xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản
di chúc. Pháp luật không buộc người làm chứng cho việc lập di chúc phải xác
nhận đúng nội dung mà người lập di chúc "nhờ người khác viết".
Trong thực tế đã có nhiều trường hợp người làm chứng của di chúc chỉ ký
vào di chúc mà không thể hiện hành vi xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập
di chúc. Nguyên nhân của tình trạng này có thể là sự cẩu thả của người làm chứng
hoặc do trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân chưa cao. Trong trường hợp
này, để xác định hiệu lực của những di chúc thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa
án phải căn cứ vào những chứng cứ khác như lời khai của các đương sự, lời khai
của người làm chứng xem có đúng là họ trực tiếp chứng kiến người lập di chúc
ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc hay không, kết quả giám định dấu vân tay, chữ
ký của người lập di chúc. Từ đó, mới có thể có kết luận công nhận hay không
công nhận hiệu lực pháp luật của di chúc.
Trong thực tế giải quyết của Tòa án, đã có không ít những trường hợp mà
người làm chứng không biết là người lập di chúc có ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc hay không. Khi người lập di chúc mang di chúc nhờ xác nhận với tư cách
người làm chứng là họ xác nhận. Theo quy định của pháp luật thì những người làm
chứng phải trực tiếp chứng kiến việc người lập di chúc ký vào bản di chúc. Đối với
trường hợp này nếu có căn cứ xác đáng chứng minh đúng là chữ ký hoặc điểm chỉ
của người lập di chúc thì cũng cần công nhận hiệu lực pháp luật của di chúc.
Theo quy định của BLDS năm 2015 về người làm chứng cho di chúc, mọi
người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người thừa kế theo
80