Page 31 - Sinh hoat chi bo T9.cdr
P. 31

quy định: Các khu tự trị, các thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố

                  trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Các
                  huyện có ủy ban hành chính. Các khu phố ở các thành phố và thị xã lớn có ban hành
                  chính khu phố. Các thành phố có thể chia thành khu phố có hội đồng nhân dân và

                  ủy ban hành chính. Như vậy, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương bao gồm
                  hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân (có lúc gọi là ủy ban hành chính) ở các cấp

                  phân định hành chính địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

                         Hội đồng nhân dân là cơ quan cấu thành tổ chức bộ máy của chính quyền
                  địa phương ở Việt Nam. Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 quy định hội đồng

                  nhân dân cấp xã có từ 15 - 25 hội viên chính thức và từ 5 - 7 hội viên dự khuyết.
                  Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 20 - 30 hội viên chính thức và 5 hội viên dự
                  khuyết. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được tính theo dân số thông qua

                  nghị định của Bộ Nội vụ. Ngày 23-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành
                  Sắc lệnh số 10/SL, điều chỉnh một số quy định: ở mỗi tỉnh sẽ đặt một hội đồng

                  nhân dân bao gồm có từ 20 đến 30 hội viên chính thức và một số hội viên dự
                  khuyết ngang số đơn vị tuyển cử (tức là mỗi đơn cử có một hội viên dự khuyết);
                  đơn vị tuyển cử sẽ là huyện và thị xã. Số hội viên chia cho mỗi huyện và mỗi thị

                  xã sẽ do nghị định của ủy ban hành chính kỳ ấn định.

                         Ủy ban nhân dân (cách gọi khác là ủy ban hành chính) là cơ quan chấp
                  hành, do hội đồng nhân dân bầu ra; chấp hành nghị quyết, chịu sự giám sát của

                  hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958: “Ủy
                  ban  hành  chính  các cấp là  cơ quan  chấp  hành  của  Hội đồng  nhân dân  cùng

                  cấp...”.  Chủ tịch Hồ Chí Minh xem “Ủy ban nhân dân (xã, huyện, tỉnh, thành
                  phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương”. Sắc lệnh số 63/SL do Chủ

                  tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22-11-1945 quy định cách tổ chức ủy ban hành chính
                  gồm có cấp xã, huyện, tỉnh, kỳ. Trong bài viết “Cách tổ chức các ủy ban nhân

                  dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ủy ban có từ 5 đến 7 người phải cử ra một
                  chủ tịch, đứng đầu ủy ban, có nhiệm vụ đốc suất, củ soát các ủy viên khác, liên
                  lạc với các cấp bộ trên và các tổ chức trong địa phương, chiêu tập và điều khiển

                  các cuộc họp; một phó chủ tịch, giúp đỡ và thay chủ tịch khi anh này bận hay đi
                  vắng; một thư ký giữ sổ sách, làm biên bản trong các cuộc hội họp; các ủy viên

                  phụ trách chính trị, kinh tế tài chính, quân sự, xã hội. Chủ tịch, phó chủ tịch và
                  thư ký có thể kiêm phụ trách hoặc kinh tế, tài chính, hoặc tuyên truyền huấn
                  luyện, hoặc quân sự, hoặc xã hội. Họp chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký thành ban

                  thường vụ để chỉ huy công tác hằng ngày. Những ủy viên phụ trách, nếu cần, có
                  thể lấy một số người ngoài ủy ban lập ra các tiểu ban tuyên truyền huấn luyện,

                  tiểu ban tư pháp, tiểu ban quân sự, v.v. Trong các tiểu ban đó, ủy viên phụ trách



                  Số 09/2025 – Thông tin Sinh hoạt Chi bộ                                                  29
   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36