Page 34 - Sinh hoat chi bo T9.cdr
P. 34

cấp địa phương và các địa bàn. Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh

            trực tiếp lãnh đạo xây dựng và ban hành nêu rõ: Nước Việt Nam về phương diện
            hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia
            thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có hội đồng

            nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh,
            thành phố, thị xã hay xã cử ra ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có ủy ban

            hành chính. Ủy ban hành chính bộ do hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy
            ban hành chính huyện do hội đồng các xã bầu ra. Với quy định này của Hiến pháp
            năm 1946 thì cấp bộ và cấp huyện không tổ chức hội đồng nhân dân.


                    Trong thiết kế hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cũng
            có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 quy định nhiệm
            kỳ hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh là 3 năm;
            nhiệm kỳ hội đồng nhân dân các cấp khác là 2 năm. Hội đồng nhân dân khu tự
            trị và tỉnh họp 6 tháng một lần; hội đồng nhân dân thành phố và châu họp 3 tháng

            một lần. Hội đồng nhân dân thị xã, xã, thị trấn họp ít nhất 3 tháng một lần. Ủy
            ban nhân dân theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân cùng cấp nên sự đa dạng của
            hội đồng nhân dân dẫn đến sự đa dạng trong nhiệm kỳ của ủy ban nhân dân.

                    Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký cho thấy
            không có sự giống nhau hoàn toàn giữa các cấp ủy ban hành chính địa phương về
            cơ cấu ủy viên, nhân sự lãnh đạo và cơ chế tổ chức. Cấp xã và cấp kỳ có 5 ủy viên

            chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; cấp huyện và cấp tỉnh có 3 ủy viên chính thức
            và 2 ủy viên dự khuyết. Ủy ban hành chính xã do hội đồng nhân dân xã bầu ra; ủy
            ban hành chính cấp huyện do hội viên hội đồng nhân dân các xã trong huyện bầu
            ra (không phải do hội đồng nhân dân huyện bầu ra); ủy ban hành chính cấp tỉnh

            do hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra; ủy ban hành chính cấp kỳ do hội viên hội đồng
            nhân dân các tỉnh trong kỳ bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân kỳ bầu ra).

                    Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật
            Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 cho phép tùy nhu cầu công tác của
            mỗi cấp chính quyền địa phương và mỗi địa bàn mà ủy ban hành chính có thể lập

            ra các cơ quan chuyên môn: Ủy ban hành chính khu tự trị, thành phố trực thuộc
            trung ương, tỉnh có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập ra các cơ quan
            chuyên môn. Ủy ban hành chính châu, thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, thị xã
            có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn.
            Ủy ban hành chính xã, thị trấn có một hoặc nhiều thư ký giúp việc bộ phận thường
            trực của ủy ban và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn.


                    Sự đa dạng này phản ánh tính linh hoạt trong tổ chức bộ máy của chính
            quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của mỗi cấp địa phương
            và mỗi địa bàn, nhưng hiện hữu trong chỉnh thể thống nhất của tổ chức bộ máy





            32                                                         Số 09/2025 – Thông tin Sinh hoạt Chi bộ
   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39