Page 120 - Di san van hoa An Duong
P. 120

phát triển, nên đã sinh ra hai vị danh tướng Vũ Giao, Vũ Sào, sau làm Thành
              hoàng làng. Tên Lưu Khê được đổi thành Vĩnh Khê trước năm 1691, bởi trong văn
              bia “Tu Hưng Khánh quán bi”, dựng niên hiệu Chính Hòa 12 (1691), hiện bảo tồn
              tại địa phương, đã ghi địa danh Vĩnh Khê.


                   Đầu thời Nguyễn, triều Minh Mạng (1820-1840), thành lập đơn vị hành
              chính cấp tổng. Năm 1837, thành lập phủ Kiến Thụy, Vĩnh Khê thuộc tổng Văn
              Cú, huyện An Dương, phủ Kiến Thụy. Năm 1898, chính quyền đô hộ thành lập
              tỉnh  Hải  Phòng,  năm  1902  đổi  thành  tỉnh  Phù  Liễn  (tỉnh  lỵ  chuyển  về  Phù

              Liễn), năm 1906 đổi là tỉnh Kiến An, huyện An Dương thuộc các tỉnh trên. Làng
              Vĩnh Khê trước đây có một đình, hai đền và một chùa (Phúc Quang - 福光).

              Chùa ít nhất có từ thời Trần, thế kỷ XIII. Nay địa phương chỉ còn lại đình và
              chùa. Sau nhiều lần chia tách đơn vị hành chính, năm 1987 xã An Đồng thành
              lập trên cơ sở hợp nhất hai xã Đồng Tiến và Đồng Tâm, thôn Vĩnh Khê thuộc

              xã An Đồng.

                   Trong những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và xây dựng đất nước,
              Vĩnh Khê có 02 gia đình được tặng Bằng có công với nước, 01 lão thành cách
              mạng, 01 Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới, 49 liệt sĩ, 19 thương, bệnh

              binh. Vĩnh Khê có vị lão thành cách mạng Vũ Văn Tấn (1913 - 2003), ông gia
              nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên rất sớm, từ năm 1926. Ông đã giác

              ngộ người thân trong gia đình để thành lập tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
              niên sớm của Hải Phòng và là đầu tiên của huyện An Dương, sau tổ phát triển
              ra nhiều nơi. Ông bị giặc Pháp kết án tử hình vắng mặt và một lần bị kết án khổ
              sai chung thân vì hoạt động cách mạng. Năm 1936, ông được ra tù, sau đó ông

              làm bồi bàn cho hãng hàng không Pháp nên được tổ chức giao nhiệm vụ hoạt
              động quốc tế ở Pháp. Năm 1946, sau khi gặp Bác Hồ, ông xin về Việt Nam công

              tác, Bác khuyên ông ở lại Pháp hoạt động sẽ có lợi cho đất nước hơn. Qua những
              năm hoạt động quốc tế với nhiều thành tích lớn, năm 1955, ông được lệnh về
              nước và làm Trưởng phòng thuộc Cục điện ảnh, góp phần xây dựng nền điện

              ảnh nước nhà khi còn sơ khai. Trong quá trình hoạt động cách mạng lúc công
              khai, lúc bí mật, trong nước, ngoài nước, ông Vũ Văn Tấn luôn nỗ lực công tác,
              thể hiện lòng yêu nước, đức hy sinh. Cả nhà ông, anh, em vợ, chồng và các con

              của ông bà đều nối nghiệp, phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng của gia
              đình (Theo sách Nhân vật lịch sử Hải Phòng, tập III).



                                                  DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG    120
   115   116   117   118   119   120   121   122   123   124   125