Page 31 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 31
Phaàn I: Ñòa lyù töï nhieân, ñòa lyù haønh chính vaø daân cö 31
Hệ tầng Hòn Gai (T n-rhg)
3
Trong khu vực thị xã Quảng Yên có diện tích nhỏ trầm tích Trias thuộc hệ tầng Hòn
Gai (T n-rhg) có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khối núi thấp bóc mòn -
3
xâm thực ở phía Bắc của thị xã Quảng Yên.
Phần hệ tầng dưới (T n-rhg ) có thành phần gồm cuội kết, sanh kết, cát kết thạch
1
3
anh xen đá phiến màu đen (dày 400 - 900 m). Phân hệ này phân bố trên đỉnh và sườn
trên của núi thấp, đồi sót .
(1)
1.2. Các hệ trầm tích bở rời Đệ tứ
Kỷ Đệ tứ hay kỷ Nhân sinh là khoảng thời gian gần đây nhất của lịch sử địa chất và
tiếp diễn cho tới ngày nay. Kỷ Đệ tứ có độ tuổi từ 2,588 triệu năm trước đến ngày nay,
gồm: thống Pleistocene (Q ) và thống Holocene (Q ).
2
1
Ở thị xã Quảng Yên, trầm tích Đệ tứ chiếm ưu thế và phân bố rộng rãi. Địa tầng
trầm tích kỷ Đệ tứ được phân chia thành các giai đoạn địa tầng khác khau bao gồm:
thống Pleistocene với các hệ tầng Hà Nội (Q 1 2-3 hn) và Vĩnh Phúc (Q vp); thống Holocene
3
1
với các hệ tầng Hải Hưng (Q 2 1-2 hh) và Thái Bình (Q tb). Trên địa bàn còn chứa các
3
2
trầm tích Đệ tứ không phân chia và có khả năng vắng mặt các trầm tích hệ tầng Thái
Thụy (Q tt) hay tầng Lệ Chi (Q 1c) theo cách gọi của Ngô Quang Toàn (1993), có tuổi
1
1
1
1
Pleistocene sớm.
1.2.1. Thống Pleistocene
Hệ tầng Hà Nội (Q 1 2-3 hn)
Hệ tầng Hà Nội được Hoàng Ngọc Kỷ thành lập năm 1976 và đặt tên theo địa danh
Thủ đô Hà Nội, khá phổ biến dưới bề mặt đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Tại Quảng Yên, các trầm tích hệ tầng Hà Nội không lộ trên bề mặt mà bị các trầm tích
trẻ hơn phủ lên trên, đồng thời cũng không phân bố liên tục dưới bề mặt đồng bằng. Hệ tầng
này có bề dày thay đổi trong khoảng 2 - 20 m, có đáy nằm trong khoảng độ sâu 15 - 45 m.
Hệ tầng Hà Nội nằm không chỉnh hợp trên các đá và trầm tích cổ hơn. Tại Quảng
Yên, trầm tích bở rời của hệ tầng nằm trên đá gốc và có vai trò lót đáy đồng bằng.
Hệ tầng Vĩnh Phúc (Q vp)
3
1
Hệ tầng Vĩnh Phúc (Q vp) thuộc thống Pleistocene trên, nguồn gốc biển, sông biển
3
1
và aluvi; được Hoàng Ngọc Kỷ thành lập năm 1976 và đặt tên theo địa danh tỉnh Vĩnh
Phúc. Trầm tích của hệ tầng phân bố khắp ở đồng bằng Bắc Bộ và ven bờ Đông Bắc,
phần lớn bị phủ dưới mặt đồng bằng và lộ hạn chế trên bề mặt.
Tại khu vực Quảng Yên, hệ tầng Vĩnh Phúc (mQ vp) ít lộ trên mặt, phần lớn bị các
3
1
trầm tích trẻ hơn phủ trên. Diện tích lộ trên bề mặt của hệ tầng chiếm một diện tích
nhỏ ở phía Bắc của thị xã sát đứt gẫy đường 18. Hệ tầng Vĩnh Phúc trên địa bàn Quảng
Yên có bề dày khoảng 5 - 20 m. Thành phần cấu tạo gồm cát, ít sạn sỏi, bột, sét, màu
sắc loang lổ có thể phân biệt thành ba phần như sau:
(1) Nguyễn An Thịnh, Trần Văn Trường, Dư Vũ Việt Quân: “Yếu tố lãnh thổ và các nguồn lực tự nhiên
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh”, Đô thị Quảng Yên, truyền thống và định hướng phát triển, Nxb.
Thế giới, 2011, tr.398.