Page 535 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 535
Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi 535
gò đất bằng phẳng và hơi thấp được nhân dân sử dụng để trồng hoa màu. Những dòng
nước cổ có nơi trở thành đầm nuôi thủy sản, có nơi bị chặn đắp hoặc nắn dòng thành
kênh mương tưới tiêu và phục vụ việc đi lại bằng thuyền nhỏ. Địa điểm xuất lộ cọc nằm
ở khu vực trũng, ăn liền với một kênh đào ở phía Đông và một kênh dẫn nước ở phía
Nam. Kênh phía Đông nối liền với sông Cửa Đình có khả năng là một đoạn sông cổ nằm
ở phía trước đình Hải Yến .
(1)
Năm 2010, bãi cọc Đồng Má Ngựa được Viện Khảo cổ học phối hợp với Ban Quản lý
các di tích trọng điểm Quảng Ninh và các nhà nghiên cứu quốc tế khảo sát và tiến hành
khai quật. Khu vực khảo sát rộng 4.000 m với tổng diện tích khai quật là 300 m (dài
2
2
gần 80 m theo chiều Đông - Tây, rộng gần 40 m theo chiều Bắc - Nam), nằm trong diện
tích ao nuôi thủy sản của gia đình ông Đặng Tiến Phong.
So với các bãi cọc khác thì loại hình hiện vật được phát hiện tại bãi cọc Đồng Má Ngựa
phong phú hơn về chủng loại, bao gồm: 55 cọc gỗ , 58 mảnh gốm, gốm men, sành và sứ,
(2)
79 mảnh và nhóm mảnh sành, 19 mảnh gạch ngói, 13 viên ngói các loại, 1 mảnh mái
chèo và một số mảnh gỗ nhỏ có vết chế tác, các mảnh xương động vật, vỏ quả, mảnh hà
don, 1 mảnh tiền đồng vỡ nửa và 1 mảnh kim loại nhỏ. Hầu hết các mảnh sành, sứ, gốm,
gạch đều được tìm thấy ở lớp 3, 4 và một số được phát hiện ở lớp 5 . Từ kết quả khảo sát
(3)
và khai quật, các nhà nghiên cứu nhận định địa tầng của các hố khai quật thể hiện sự
có mặt của một dòng nước cổ có bờ cao dần về phía Đông. Cọc gỗ được cắm cả trên bờ lẫn
trong dòng chảy, thường được cắm đứng dưới lòng sông và cắm xiên theo nhiều hướng
trên bờ sông. Phạm vi phân bố của bãi cọc nằm trên diện tích khoảng 2.100 m , dài 70
2
m theo chiều Đông - Tây và rộng 30 m theo chiều Bắc - Nam. Mật độ cọc phân bố không
đồng đều, tập trung thành cụm dày đặc ở góc Đông Nam và Tây Bắc của ao nuôi thủy
sản. Đặc biệt, có khu vực cọc được đóng dày như bức thành bằng gỗ, chân các cọc được
cắm vào cùng một lớp đất, tuy nhiên các cọc gỗ xuất lộ chênh nhau về độ cao khoảng 1 m
được xác định là phụ thuộc vào địa hình lòng sông và bờ sông. Phần chân cọc có các vết
chặt, đẽo sâu khoảng 20 - 30 cm tùy vào kích thước của cây gỗ. Hướng cọc không theo
quy luật nhất định, phổ biến là theo hướng Đông Nam . Kết quả phân tích một số mẫu
(4)
cọc cho thấy gỗ được sử dụng để cắm cọc có sự đa dạng về chủng loại như: lim xẹt, hoàng
linh, chò chỉ, dẻ đỏ, chò nâu, chẹo tía... Hầu hết các cọc đều không nguyên vẹn, chủ yếu
bị mục, hỏng phần trên, phần chân cọc có thể quan sát được các vết khắc, đẽo gọt hoặc
lỗ đục thủng hình vuông. Dấu vết đục thủng trên một chân cọc lớn cho thấy có thể cây
gỗ được vận chuyển theo cách dùng voi và trâu kéo.
(1) Xem Ban Quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh: Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng
năm 1288, sđd, tr.74-75.
(2) Xem Ban Quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh: Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng
năm 1288, sđd, tr.76. Theo Lê Thị Liên, Mark Starnifoth, Jun Kimura: “Vai trò của các bãi cọc ở chiến
trường Bạch Đằng - Nhận thức mới từ kết quả khảo cổ học gần đây”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc
tế Bạch Đằng và Nhà Trần trong bối cảnh thế giới thế kỷ XIII, tr.365, số lượng cọc được tìm thấy là
58 cọc gỗ.
(3) Xem Ban Quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh: Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng
năm 1288, sđd, tr.76.
(4) Xem Tống Trung Tín, Lê Thị Liên: “Di tích bãi cọc Bạch Đằng và vấn đề diện mạo chiến trường
Bạch Đằng năm 1288”, Hội thảo khoa học 725 năm (1288 - 2013) chiến thắng Bạch Đằng, sđd, tr.57.