Page 533 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 533

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    533



               và 1988, Vụ Bảo tồn Bảo tàng, Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp, Bảo tàng Lịch
               sử Việt Nam, Viện Khảo cổ học và Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh tiến hành
               khảo sát khu vực Đồng Vạn Muối và phát hiện nhiều đầu cọc lớn nổi lên trong các cánh
               đồng lúa. Năm 1995, trong khi đào ao thả cá, người dân phát hiện nhiều cọc gỗ trong
               khu vực này. Năm 1998, Phòng Văn hóa huyện Yên Hưng thực hiện một cuộc thám sát,
               đào kiểm tra và xác nhận có nhiều cọc gỗ cắm đứng với một số cây gỗ nằm ngang ở đây.
               Một số cọc được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên) và Bảo
               tàng Hải quân (thành phố Hải Phòng).

                  Năm 2005, nhằm xác định đặc điểm, phạm vi phân bố và tính chất di tích, Viện Khảo
               cổ học phối hợp với Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh thực hiện một cuộc khảo
               sát tổng thể và khai quật địa điểm này. Các hoạt động được tiến hành tại đây bao gồm:
               khảo sát hiện trạng địa hình và địa thế khu vực di tích, xác định các cọc xuất lộ trên
               mặt, mở 11 hố khai quật và thám sát với diện tích 116 m  trong khu vực phía Bắc Đồng
                                                                           2
               Vạn Muối và khu vực có cọc lộ thiên.

                  Kết quả cuộc khai quật cho thấy tại 7 hố thám sát ở khu vực phía Bắc không xuất lộ
               cọc, còn tại 4 hố khai quật phía Nam trong khu vực đào ao thả cá và đầm nước phát hiện
               dấu tích 38 cọc gỗ và 13 cọc lộ thiên. Dựa trên kết quả khai quật và phạm vi phân bố bãi
               cọc gỗ, các nhà khảo cổ học nhận định bãi cọc có xu hướng phát triển theo hướng Tây
               Bắc - Đông Nam, có chiều Đông - Tây khoảng hơn 40 m, chiều Bắc - Nam khoảng hơn
               150 m. Kết hợp với thông tin nhiều cọc gỗ được nhân dân lấy lên trong quá trình canh
               tác, có thể xác định diện tích bãi cọc thực tế lớn hơn nhiều. Bãi cọc có xu hướng ăn lan
               ra nhánh Sông Rút và được cắm vào lớp đất phù sa thuần màu xám hồng, dày hơn 1 m
               ở khu vực bãi lầy ven sông - nơi tác động của dòng chảy không lớn. Các cọc được bố trí
               thành từng cụm dày, mỗi cọc cách nhau 40 - 60 cm hoặc được đóng xiên ngay dưới chân
               cọc cắm đứng. Các cụm cọc cắm theo hình dích dắc cách nhau 10 - 30 m. Phần lớn các
               cọc xuất lộ ở độ sâu trong khoảng -140 đến -170 cm so với điểm 0 giả định (mặt ngang
               đường khu Đồng Cốc hiện nay), cá biệt có cọc xuất lộ ở độ sâu -237 cm. Kích thước cọc
               không lớn, đường kính phổ biến từ 7 - 10 cm, cá biệt có một số cọc có đường kính tới
               20 - 22 cm, phần chân đẽo gọt chỉ dài 25 - 30 cm . Các cọc được cắm theo nhiều hướng,
                                                                  (1)
               thường xiên 45 độ về phía Tây Nam, hoặc phối hợp với các cọc đứng tạo thành thế hiểm
               hóc nếu bị sa lầy.
                  Đánh giá về đợt khai quật này, các nhà khảo cổ học cho rằng có khả năng bãi cọc
               được xây dựng nhằm thu hẹp dòng chảy phía Sông Rút và tạo chướng ngại vật cho
               vùng bãi lầy trên đảo Hà Nam . Cùng với bãi cọc Yên Giang ở cửa sông Bạch Đằng,
                                                (2)
               bãi cọc Đồng Vạn Muối kết hợp với các dải đá ngầm Ghềnh Cốc tạo thành phòng tuyến
               chặn sông Bạch Đằng, làm nên trận địa vững chắc không cho quân Nguyên - Mông
               rút chạy ra biển.


               (1)  Xem Tống Trung Tín, Lê Thị Liên: “Di tích bãi cọc Bạch Đằng và vấn đề diện mạo chiến trường
               Bạch Đằng năm 1288”, Hội thảo khoa học 725 năm 1288 - 2013 Chiến thắng Bạch Đằng, sđd, tr.55.
               (2)  Xem Lê Thị Liên, Hà Mạnh Thắng: Báo cáo kết quả khảo sát, thám sát Bãi cọc Đồng Vạn Muối
               (xã Nam Hòa, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh) tháng 9 và tháng 11 năm 2005. Tư liệu Viện Khảo
               cổ học.
   528   529   530   531   532   533   534   535   536   537   538