Page 530 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 530
530 Ñòa chí Quaûng Yeân
từ thời Hán đến thời Lê, Mạc, một ít thanh sắt và các đoạn gỗ nằm ngang... Các cọc
gỗ tìm được chủ yếu là các cọc cắm đứng, toàn bộ bằng gỗ lim với mật độ đóng rất dày.
Trong 7 hố khai quật, các nhà khảo cổ tìm được 32 cọc, bên cạnh đó tại các hố mà nhân
dân lấy đất để đắp đê cũng tìm được 14 cọc. Đường kính trung bình của cọc từ 20 - 26 cm,
có cọc lên tới 29 cm; khoảng cách giữa các cọc từ 0,9 - 1,2 m. Bãi cọc chạy dài 113 m, rộng
13 m theo hướng ngang qua Sông Chanh kết hợp với trục Nam - Bắc một góc 27 độ theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam. Đánh giá về kết quả khai quật, bãi cọc Yên Giang được các
nhà khoa học nhận định là bãi cọc Trần Hưng Đạo dùng để chặn đánh đoàn thuyền do
Ô Mã Nhi chỉ huy. Hai mẫu gỗ được lấy từ hố khai quật được đi làm xét nghiệm Cacbon
phóng xạ: một mẫu có niên đại 1.335 - 100 năm cách ngày nay và một mẫu có niên đại
1.100 - 100 năm cách ngày nay .
(1)
Năm 1976, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tiếp tục chọn bãi cọc Yên Giang làm địa
điểm khai quật lần thứ ba trên 2 hố khai quật với diện tích 113,5 m , độ sâu 2,5 m xuống tận
2
đầu phía dưới của bãi cọc để lấy cọc về trưng bày. Hiện vật thu được bao gồm các loại:
cọc gỗ, vồ đóng cọc, những đoạn gỗ và cành cây. Cọc gỗ trong đợt khai quật này không
khác biệt với những cọc gỗ được tìm thấy trong các đợt khai quật trước đây. Các cọc gỗ
được làm chủ yếu từ gỗ lim, dài từ 2 - 2,8 m, trong đó có 2 cọc dài tới 2,98 m và 1 cọc dài
1,4 m. Đường kính cọc bé nhất là 18 cm, lớn nhất là 33 cm, trung bình từ 20 - 26 cm,
đầu cọc phía trên bị mủn, đầu cọc dưới được gọt đẽo rất nhọn có đường kính từ 0,8 - 1 m.
Đặc biệt ngoài những cọc đứng, các nhà nghiên cứu còn phát hiện được hai hàng cọc cắm
xiên 45 độ, mỗi hàng từ 2 - 3 cọc, khoảng cách chừng 1 m theo hướng Đông Tây và chếch
Tây 15 độ gần trùng với hướng Sông Chanh. Trong lần khai quật này, các nhà khảo cổ
đã phát hiện những chiếc vồ đóng cọc mà các đợt khai quật trước không tìm thấy. Căn
cứ theo hình dáng, các loại vồ được chia thành 2 loại: loại nhỏ có 2 cái là những đoạn gỗ
có đường kính 20 cm, dài từ 1,2 - 1,3 m, một nửa được đẽo vát đi một ít, nửa còn lại được
đẽo nhỏ đi khoảng 10 cm để làm cán; loại thứ hai là loại vồ lớn có 4 cái là những đoạn gỗ
to được chặt ra từ những cọc dài có đường kính khoảng 25 cm, dài khoảng 1,5 m, một đầu
được chặt ngang, phẳng, đầu còn lại được đẽo nhỏ đi (đường kính khoảng 10 cm) và nhô
ra 10 cm để có thể cầm được. Bên cạnh đó, tại các hố khai quật cũng phát hiện những
đoạn gỗ và cành cây là phần bỏ đi của những đoạn cọc quá dài, một số đoạn gỗ còn có
vết chặt thành rãnh để buộc dây kéo . Niên đại của bãi cọc được đánh giá là thống nhất
(2)
với hai lần khai quật trước đó.
Năm 1984, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh tiến hành khai quật bãi cọc lần
thứ tư, phát hiện thêm một số cọc, trong đó 3 cọc gỗ được lấy lên để trưng bày, còn lại
được tháo nước vào để tiếp tục bảo vệ. Kết quả lần khai quật này không khác gì so với
những lần trước.
Năm 1988, nhân lễ kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng (1288 - 1988), Sở Văn
hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học và Viện Nghiên cứu
Khoa học về trái đất tổ chức khảo sát tổng thể và khai quật bãi cọc lần thứ năm.
(1) Xem Phạm Như Hồ, Nguyễn Duy Hinh: “Cọc Bạch Đằng năm 1288: Dữ liệu khảo cổ học”, tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử số 4, 1988, tr.46.
(2) Xem Lưu Trần Tiêu, Trịnh Căn: “Cọc Bạch Đằng trong đợt khai quật 1976”, tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử số 1 (172), 1977, tr.68-69.