Page 215 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 215
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
chủ, được hình thành qua cuộc bầu cử tương đối tự do (qua sự phê
bình của các chính trị gia đối lập như ông Phan Quang Đán, giáo
sư Nguyễn Ngọc Huy, như đã đề cập trong mục III, đoạn I của
chương II), tuy nhiên tướng Nguyễn Văn Thiệu, người lãnh đạo
nền Đệ II Cộng Hòa, chỉ được đào luyện để cầm quân trên chiến
trường, chứ không được đào luyện để trở thành một nhà lãnh đạo
quốc gia đúng nghĩa. Nhà lãnh đạo phải có quá trình đấu tranh
cách mạng cần có và kiến thức đầy đủ về nền chính trị quốc nội,
phải có viễn kiến thật xa và thật rộng về nền chính trị quốc tế. Và
trên tất cả phải là một con người đầy đủ đảm lược, thanh liêm và
chính trực. Người đó phải có tài dụng nhân và quy tụ được chung
quanh mình các cộng sự uyên thâm về các lãnh vực quản trị công
quyền và quản trị xã hội.
ĐOẠN I
Đệ II Cộng Hòa với cuộc tổng công kích
Tết Mậu thân (1968).
I.- Vài đặc điểm của nền Đệ II Cộng Hòa
Hiến Pháp nền Đệ II Cộng Hòa do Quốc Hội Lập Hiến (bầu ra
vào ngày 11-9-1966) soạn thảo và chung quyết rồi được ban hành
ngày 1-4-1967 mà không đem ra "trưng cầu dân ý". Bản văn Hiến
Pháp này (gồm 117 điều khoản) là văn kiện cơ bản khai sinh ra nền
Đệ II Cộng Hòa, theo đó nguyên tắc phân quyền được qui định:
Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp.
- Lập Pháp không như dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm
với chỉ một Viện độc nhất, mà theo mô thức của Quốc Hội Hoa
Kỳ: Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện. Thượng Viện gồm 60
ghế được bầu theo liên danh (mỗi liên danh gồm có 10 ứng cử
viên), bầu vào ngày 3-9-67 và được bầu trên toàn quốc với nhiệm
kỳ 6 năm: nhưng nhiệm kỳ đầu tiên phải bốc thăm khi đến hạn kỳ
3 năm (30 vị bốc thăm trúng sẽ ở lại thêm 3 năm nữa), còn sẽ tổ
chức bầu lại bán phần Thượng Viện vào năm 1970, và cứ 3 năm
bầu lại bán phần Thượng Viện. Hạ Nghị Viện gồm 127 ghế được
bầu theo từng đơn vị ở cấp tỉnh với nhiệm kỳ 4 năm; nhiệm kỳ đầu
được bầu vào ngày 22-10-1967.
214