Page 319 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 319
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
sự đoàn kết thiết yếu giữa VNCH và Hoa Kỳ, và tuyên bố việc
ngoại trưởng Trần Văn Lắm sẽ đích thân tham dự vào giai đoạn
chót của cuộc hòa đàm.
Trong bầu trời xám ngắt lạnh lẽo và mưa sụt sùi của buổi chiều
ngày thứ Ba-01, hồi 12 giờ 45, Kissinger và Lê Đức Thọ phê
chuẩn Hiệp Định Paris tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế, khách
sạn Majestic, đại lộ Kleber. Hai bên giằng co về số trang và so
sánh bản văn rồi phê chuẩn vào 36 chỗ trong bản thỏa hiệp và phụ
bản. Kissinger ký bằng 2 chữ HK nối liền và Lê Đức Thọ ký vỏn
vẹn "Thọ". Kissinger dùng một số bút mực và tặng cho bộ tham
mưu của ông mỗi người một cái. Thọ đưa bút của mình cho
Kissinger "để nhắc Hoa Kỳ về việc thi hành nghiêm chỉnh bản
Hiệp Định này". Cả Kissinger và Lê Đức Thọ đứng ra đọc bài diễn
văn có tính cách hòa giải. Chiến tranh đã chính thức chấm dứt.
Trong lần họp cuối, Lê Đức Thọ có nêu vấn đề Mỹ tái thiết Việt
nam, nhưng Kissinger nhấn mạnh rằng vấn đề đó còn tùy thuộc
vào sự tôn trọng Hiệp Định và phải được Quốc Hội Hoa Kỳ chấp
thuận. Lê Đức Thọ nói với Kissinger là phi cơ Mỹ có thể bay ra Hà
Nội để nhận lãnh tù binh. (101)
Lễ ký kết chính thức của Hiệp Định Ba Lê là ngày 27-01-1973,
gồm bốn vị ngoại trưởng là:
- Williams P. Rogers (Hoa Kỳ)
- Trần Văn Lắm (VNCH)
- Nguyễn Duy Trinh (VNDCCH)
- Nguyễn Thị Bình (CPCMLTMN)
Hiệp Định Ba Lê (ngày 27-01-73) gồm có:
- Một Hiệp Định chính: hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập
lại hòa bình ở Việt nam gồm 9 chương và 23 điều.
- 4 nghị định thư bổ sung cho hiệp định chính, đề cập đến các
vấn đề:
- Về ủy ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát.
- Về việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt, thường dân nước
ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ.
- Về ngưng bắn ở miền Nam Việt Nam và về các ban Liên Hợp
Quân Sự.
318