Page 8 - C:\Users\Admin\Desktop\LSDB QTien, LCOT\
P. 8
8. Thôn Chản 20. Thôn Trung Một
9. Thôn Đồng Lạng 21. Thôn Trung Hai
10. Thôn An Liễu 22. Thôn Trung Ba
11. Thôn Vân Thành 23. Thôn Kép Vàng
12. Thôn Me Điền 24. Thôn Cầu Chản*
(* Thôn Cầu Chản được thành lập từ ngày 07/5/1997, đã đi vào hoạt động gần hai chục năm, ngày
01/01/2015 giải thể theo Kết luận số 105-KL/HU ngày 07/11/2014 của Ban Thường vụ Huyện ủy Tân
Yên).
3. DÂN CƯ.
Theo “Địa chí Tân Yên” khi khai quật, khảo sát trong khu vực xung quanh núi Đót,
các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật đồ đá: Hai chiếc cuốc bằng đá, chiếc thứ nhất
dài 15,6cm lưỡi rộng 10,2 cm được chế tạo từ đá gốc mầu xám, chiếc thứ hai chỉ còn lại một
phần của lưỡi rộng 8,5 cm. Ngoài ra còn có các mảnh tước, rìu tay, các mảnh ghè đẽo, một
số cổ vật bằng đồng như rìu, dáo, mũi lao,… Điều đó chứng tỏ từ thời nguyên thủy, trong
khu vực này: Lý Cốt, Lam Quật, Lãn Quật,… đã có con người sinh sống.
Tuy nhiên xã Lam Cốt thời cổ xưa, cũng như các xã khác trong huyện Yên Thế chỉ là
một vùng rừng núi xa sôi, cách trở, “lam sơn chướng khí”, dân cư thưa thớt của một miền
sơn cước được gọi là Yên Viễn. Ngay địa danh của xã thời ấy: Lam Quật (rừng núi, hầm
hố), Lãn Quật (hầm hố, chưa được khai thác…) cũng phần nào nói lên điều đó. Mãi đến thời
kỳ Lê-Mạc, thế kỷ 16, khi mà "Đại loạn cư Yên Thế, thái bình cư đế đô" với dòng người di
cư ồ ạt từ miền xuôi lên vùng Yên Thế, dân cư của Lam Quật và Lãn Quật mới bắt đầu phát
triển mạnh. Các làng cổ: Mèn, Ngo, Kép Thượng, Nguộn, Trung, Kép Vàng, làng Đồng và
làng Chản lần lượt ra đời. Tiếp theo đó là sự ra đời gần như đồng thời của bốn khu di tích
lịch sử văn hoá tâm linh tín ngưỡng, đình chùa miếu mạo của Lam Quật và Lãn Quật. Đến
thời thuộc Pháp, theo nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá địa phương Vương Thành Giao, dân
số xã Lam Cốt có khoảng 740 người, 180 hộ, chừng 200 xuất đinh. Dân số Lãn Quật có 130
người, 40 hộ, chừng 35 xuất đinh.
Bắt đầu từ khi có đập thuỷ lợi Thác Huống (Đập khởi công xây dựng năm 1922, đến
tháng 6-1929 thì khánh thành), đưa đồng đất quê ta từ một vụ bấp bênh thành hai vụ ăn
chắc. Nhân dân nhiều nơi về đây làm ăn sinh sống. Là thời kỳ phát triển dân số cơ học mạnh
mẽ nhất của xã nhà.
Bà con Me Điền ở Việt Yên lên, sau đó bà con Nga Mi ở Phú Bình- Thái Nguyên
xuống, thành lập thôn Mi Điền, sau đổi tên thành Me Điền. Bà con Đồng Lạng xã Hoài Sơn,
Từ Sơn, Bắc Ninh lên thành lập thôn Đồng Lạng. Bà con Bầu Dật, Hiệp Hoà vào cùng với
các gia đình từ Vân Hà lên từ trước, thành lập thôn An Liễu. Bà con Vân Cốc lên đây thành
lập thôn Vân Thành. Bãi Đồng Thờm những năm 1937- 1938 chỉ có một mình trại cụ Nhâm
Vĩnh. Năm 1946 có hai hộ từ làng Chậu lên, rồi lần lượt các gia đình từ làng Kép Thượng
ra, Từ Hải Dương… lên thành lập thôn Đồng Thờm. Thôn Lam Sơn vốn một phần đất là
đồn điền Trị Cụ và Cao Sơn Thiên, một phần đất của làng Ngo và có cả ruộng của làng
Chậu. Trước Cách mạng 1945 chỉ có một hộ nhà cụ Se với 4 nhân khẩu. Thế rồi “đất lành
8