Page 115 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 115
Phần thứ nhất: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ, H NH CHÍNH 107
rộng của địa bàn cũng như yêu cầu tăng sản lượng khai thác.
Đến đầu thế kỷ XX, mỗi mỏ than ở đây có tới hàng nghìn
công nhân làm việc. Công nhân ở tập trung thành từng khu,
sống trong các lán trại, rồi dần dần hình thành các “làng” có
tính ổn định. Đó là các “làng mỏ”, “làng thợ”, như lán Mông -
giăng, lán Núi Trọc, lán Phố Chợ...
Điều kiện sống của công nhân mỏ khi đó rất khổ cực. Họ
ở trong những dãy nhà lợp lá, cỏ tranh, nhà tranh tre đan,
vách nứa, nhà trát bùn rơm, cột kèo bằng tre hoặc gỗ tạp.
Trong lán có giường tầng, 2 tầng hoặc 3 tầng, phu mỏ gọi là
giường cũi chó vì tầng rất thấp. Phu mỏ từng người hoặc
từng tốp tự nấu ăn, thường phải tranh nhau chỗ đun nấu.
Sau vài 3 năm làm mỏ, những người lập gia đình thường
làm nhà ở riêng, họ phát hoang chân đồi, vạt núi, dựng túp
lều tranh. Con cái đẻ ra mẹ phải địu lên tầng, giấu trong
bụi rồi đi xúc than, đẩy goòng. Thời điểm đó, phụ nữ không
được làm trong lò, chỉ có thể xin việc trên tầng hoặc trong
nhà sàng, một ít làm than ghè tức là đập than cục, đánh
sắng tẩy (san than dưới tầu). Cuộc sống của người dân vô
cùng cơ cực trong các lán phu mỏ và các xóm phu mỏ. Chủ
mỏ có đầu tư xây dựng lán trại mỗi đợt mộ phu để mở mỏ
nhưng sau đó thì để mặc cho phu mỏ tự lo liệu.
Sau ngày giải phóng miền Bắc, bên cạnh công nghiệp
khai thác than, Cẩm Phả dần phát triển thành trung tâm
công nghiệp lớn của tỉnh Quảng Ninh cũng như của cả
nước. Điều đó tạo ra nhu cầu lớn về nguồn lao động, nhất
là lao động có tay nghề, được đào tạo qua trường lớp.
Nguồn nhân lực này vẫn hầu hết đến từ các tỉnh vùng

