Page 117 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 117
Phần thứ nhất: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ, H NH CHÍNH 109
b) Người Sán Dìu
Người Sán Dìu tự gọi là San Déo nhín, còn có các tên gọi
khác như Sán Dẻo, Mán Váy Xẻ, Mán Quần Cộc, Trại, Trại
Đất, Trại Ruộng, Trại Cộc. Nguồn gốc của người Sán Dìu đã
được nhà bác học Lê Quý Đôn (1723 - 1782) trong Kiến văn
tiểu lục nhắc tới là tộc người Sơn Man, tức là Sơn Dao, tức
Sán Dìu. Người Sán Dìu di cư vào Việt Nam đã hơn 300
năm nay.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở người Sán Dìu
không còn nhiều đại gia đình kiểu tứ - ngũ đại đồng đường
(bốn - năm thế hệ cùng ở một nhà) cùng sống, cùng sản xuất
và cùng hưởng thụ như trước mà đã chuyển sang gia đình
nhỏ với hai hoặc ba thế hệ (ông bà - cha mẹ - con cái). Các
con trưởng thành (con trai thứ và út), sau khi lấy vợ đều
được gia đình, gia tộc và cộng đồng giúp dựng nhà mới để ra
ở riêng. Người con trai trưởng, sau khi lấy vợ thì phải ở hẳn
với bố mẹ để phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Tuy
nhiên, tinh thần đại gia đình, gia tộc luôn được đề cao. Ở khu
vực Cẩm Phả, trước đây người Sán Dìu xây dựng làng ở sườn
hay chân đồi. Làng nhỏ có khoảng vài chục nóc nhà, lớn có
thể lên tới hàng trăm hộ. Nơi ở lý tưởng của họ là vùng bán
sơn địa: trước là cánh đồng, sau lưng là đồi rừng, sông suối
để tiện cho việc cấy lúa và trồng hoa màu ở những đồng bằng
thung lũng nhỏ hẹp.
Người Sán Dìu gọi nhà là ộc. Kiến trúc truyền thống gồm
ba gian hai chái, với bộ sườn kết cấu đơn giản. Vì kèo thường là
năm cột, kèo đơn bằng gỗ nguyên cây, xà và kèo gác lên ngoãm
đầu cột, rồi buộc lại với nhau bằng dây lạt hay dây rừng.
Mái nhà được lợp bằng rơm rạ, cỏ tranh... Xung quanh nhà,

