Page 121 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 121
Phần thứ nhất: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ, H NH CHÍNH 113
Quang Hanh chỉ có người Sán Dìu đã khai thác và chiếm
hữu nhiều ruộng đất vùng lõi, còn lại có một số hộ người
Hoa ở vòng ngoài. Bắt đầu từ những năm 1965 - 1970, khu
vực này khai thác hầm mỏ và có một số trường dạy nghiệp
vụ liên quan đến mỏ được xây dựng ở đây nên số lượng
người Kinh từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ di cư lên Quang
Hanh ngày càng đông. Dần dần, người Việt đã trở nên đông
hơn so với người dân sở tại. Người Sán Dìu bắt đầu học ngôn
ngữ phổ thông để tiếp cận với các kiến thức mới.
Cũng trong khoảng thời gian đó, khu vực Quang Hanh đã
hình thành nên các hợp tác xã chuyên trồng rau để phục vụ cho
công nhân mỏ. Khi hợp tác xã giải thể, công việc chính của
người dân vẫn là trồng rau, chỉ khi dư thừa đất mới cấy lúa.
Tuy nhiên, những thực hành dân gian trong đời sống
hằng ngày vẫn nên cần bổ sung thêm, bám sát với chu kỳ
nông nghiệp vẫn được tổ chức tại đình làng như vào tháng 5
và tháng 6 có lễ tạ ơn, cầu mùa màng tổ chức vào dịp cấy.
Tháng 7 và tháng 8 có lễ cúng với lễ vật là lợn, gà để bảo vệ
gia súc gia cầm vào ngày 18/7 âm lịch, cũng là dịp xá tội vong
nhân cho chúng sinh. Lễ 25 tháng Chạp được gọi là lễ trả nợ,
hay lễ tạ, có tấu sớ lên các vị thần.
Trong ký ức của người Sán Dìu ở Quang Hanh trước đây,
khi cúng lớn 3 năm một lần vào dịp hội làng ở đây còn có
nghi lễ xiên lình được tổ chức vào dịp đầu năm. Xiên lình là
dùng mũi giáo nhọn một đầu là đao và một đầu bằng cán
nhọn dài tầm 50 - 60 cm, sắt có đường kính khoảng f5. Trong
nghi lễ, người làm lễ nhập đồng thường mặc quần áo thụng,
đầu đội mũ đỏ, họ tự cầm sắt đó xiên vào má bên này sang má
bên kia. Họ còn bẻ quặt cái xiên lình đó, rồi đi chúc mọi người.

