Page 136 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 136
128 Cẩm Phả - Đất và Người
trong số các dân tộc thiểu số trên địa bàn. Nguồn gốc người
Nùng ở Việt Nam có hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất, người
Nùng có chung cội nguồn với người Tày, thuộc nhóm Âu Việt,
cư trú ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc; chủ nhân của
vương quốc Âu Lạc mà người đứng đầu là Thục Phán An
Dương Vương (thế kỷ III trước Công nguyên). Nhóm này
được coi là cư dân bản địa. Bộ phận thứ hai là một số nhóm
Nùng ở Trung Quốc thiên di sang nước ta, bắt đầu từ cách
ngày nay khoảng 300 - 400 năm và có nhóm vẫn tiếp tục
nhập cư vào Việt Nam cách đây không lâu.
Về tên gọi các nhóm Nùng, thường được phân biệt theo
bốn tiêu chí sau:
- Gọi theo tên nghề nghiệp và không nhớ quê cũ của
mình: Nùng Nấm, Nùng Sủi mọt...
- Gọi theo tên địa phương trước khi thiên di vào Việt Nam
như: Nùng An (đến từ Châu An Kiết), Nùng Inh (đến từ Long
Anh), Nùng Lòi (đến từ Hạ Lôi)...
- Gọi theo tên tù trưởng của tộc mình: Nùng Dín (tên của
tộc trưởng Nùng A Dín), Nùng Trí Cao, Nùng Tồn Phúc...
- Gọi theo đặc điểm trên trang phục: Nùng Khen Lài mặc
áo có ống tay dài, trang trí bằng vải nhiều màu; Nùng Slửa
Tỉn mặc áo ngắn chấm hông...
Kinh tế tự nhiên của các nhóm người Nùng là trồng trọt;
nguồn sống chủ yếu dựa vào canh tác lúa nước. Từ lâu, người
Nùng đã có kinh nghiệm trong canh tác ruộng nước, kỹ thuật
canh tác khá cao, sử dụng cày bừa trong khâu làm đất, sử
dụng phân bón ruộng để cho năng suất cao.

