Page 137 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 137
Phần thứ nhất: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ, H NH CHÍNH 129
Bên cạnh việc canh tác lúa nước, nương rẫy cũng đóng vai
trò kinh tế quan trọng trong đời sống của người Nùng. Kỹ
thuật canh tác nương rẫy của họ đạt đến trình độ nhất định,
chỉ cần nhìn màu đất, địa thế, độ ẩm là có thể đoán định
được đất này thích hợp cho việc trồng cây gì. Cách canh tác
xen canh gối vụ làm đất không bị bỏ hoang hóa, trở thành
nương thâm canh, góp phần hạn chế việc chặt phá, đốt rừng
làm nương rẫy, hủy hoại môi trường sống.
Người Nùng chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm theo kinh
tế hộ gia đình, phương pháp chủ yếu là chăn thả tự nhiên, có
người trông nom để vật nuôi không phá hoại mùa màng,
chiều tối mới lùa về chuồng. Trước kia, đàn gia súc, gia cầm
thường được nhốt dưới gầm sàn. Ngày nay, ở nhiều nơi,
chuồng trại chăn nuôi đã được tách ra những khu riêng biệt,
đảm bảo vệ sinh môi trường chung.
Nghề dệt, rèn, làm giấy bản, làm ngói, mộc và đan lát của
người Nùng khá phát triển. Nổi bật nhất là nghề trồng bông,
dệt vải, nhuộm chàm để tự túc vải mặc trong gia đình. Hầu
như mọi gia đình người Nùng đều có khung dệt vải, thậm chí
số khung dệt tính theo số lượng con gái trong gia đình. Hiện
nay, một số nghề có xu hướng mai một, đặc biệt là nghề dệt.
Một số nghề khác được duy trì và phát triển như nghề rèn,
rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có
người biết làm nghề rèn.
Dòng họ của người Nùng sống chan hòa, bình đẳng và
đoàn kết. Người Nùng không lập trưởng họ như người Kinh,
không có nhà thờ họ. Ở đây không có ai làm chủ họ đứng ra
trông nom hay thờ cúng. Thờ tổ tiên là việc của mỗi gia đình

