Page 141 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
        P. 141
     Phần thứ nhất: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ, H NH CHÍNH            133
             khai hội mùa cày cấy mới. Ngoài các lễ hội, người Nùng còn
             có các lễ tết trong năm như: Tết Thanh minh (mùng 3 tháng
             3 âm lịch), Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch), Tết Xo
             lộc (tết thu vía, trả công cho trâu, bò vào ngày mùng 6 tháng
             6 âm lịch); Tết Mừng cơm mới (mùng 9 tháng 9 âm lịch) và
             Tết Đông chí.
                 Người Nùng có kho tàng văn hóa - văn nghệ dân gian
             khá phong phú và độc đáo, được thể hiện ở các lĩnh vực:
                 Diễn xướng: Có nhiều làn điệu dân ca sli - một lối hát ví,
             giao duyên của thanh niên nam nữ. Hình thức diễn xướng
             của điệu sli là diễn xướng tập thể theo lối hát bè. Họ hát theo
             lối  ứng khẩu và theo cảm xúc. Lời hát  sli  thường theo thể
             thất ngôn tứ tuyệt, bằng vần.
                 Âm nhạc: Nghệ thuật âm nhạc của người Nùng phong
             phú, đa dạng, gồm: nhị, trống, sáo, thanh la, não bạt, chũm
             chọe, chuông, nhạc sóc, tiêu, sáo ngang...
                 Vũ: Người Nùng có các điệu múa siêu tâng, múa kỳ lân,
             thường thấy trong các dịp cưới, ngày hội...
                 Văn học: Trong kho tàng văn học dân gian của người
             Nùng, phải nhắc đến thơ Cổ Phong, Cò Lẩu (những bài thơ
             trong nghi lễ  đám cưới) và các loại hình truyện cổ tích,
             truyện cười, truyện ngụ ngôn... Trong  đó phải kể  đến các
             truyện kể dân gian như: Anh chàng lên mặt trăng, Con côi...
             Nội dung của truyện thể hiện khát vọng vươn tới cuộc sống
             hạnh phúc, no đủ. Truyện được kể theo lối truyền khẩu.
                 Trò chơi dân gian: Trong các ngày tết, lễ, ngày hội,
             thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh
             quay, kéo co...





