Page 291 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 291

Phần thứ hai: LỊCH SỬ                                            275


             như ong, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng nhau hưởng
             ứng... tan rồi lại hợp” .
                                      1
                 Trong bối cảnh đó, năm 1418, tại vùng rừng núi Thanh
             Hóa, Lê Lợi - một hào trưởng  địa phương  đã dựng cờ khởi

             nghĩa, tự xưng là Bình Định vương, kêu gọi nhân dân đứng
             lên đuổi giặc, cứu nước. Cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo
             đã thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
             Trong giai  đoạn  đầu khó khăn (1418 - 1423), nghĩa quân

             Lam Sơn vừa xây dựng căn cứ, vừa chống chọi các  đợt tấn
             công của quân Minh. Từ năm 1424, nghĩa quân chuyển sang
             giai đoạn phát triển, tiến quân vào Nghệ An, mở rộng vùng

             giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa. Đến năm 1426, khi thế và
             lực đã nghiêng về nghĩa quân Lam Sơn, Lê Lợi quyết định
             tổng tấn công ra Bắc, tiến tới giải phóng đất nước. Sau những
             chiến thắng quyết định tại Tốt Động - Chúc Động, Chi Lăng -

             Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn đã giành thắng lợi quyết
             định vào cuối năm 1427, giành lại độc lập dân tộc.
                 Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi chính thức lên ngôi

             hoàng đế, thiết lập nên vương triều Lê, khôi phục quốc hiệu
             Đại Việt. Vương triều Lê Sơ tồn tại từ năm 1428 đến năm 1527,
             trải qua 13 đời vua. Dưới thời Lê Sơ, Đại Việt đạt đến thời kỳ
             đỉnh cao của chế độ quân chủ tập quyền, trở thành một quốc

             gia cường thịnh bậc nhất ở khu vực Đông Nam Á.
                 Thời kỳ  đầu, lãnh thổ cả nước  được chia thành 5  đạo:
             Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây.  Đến năm Quang Thuận

             thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông chia đặt nước ta làm 12 thừa
             _______________

                 1. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Tiến trình lịch sử Việt Nam, Sđd,
             tr.111.
   286   287   288   289   290   291   292   293   294   295   296