Page 307 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 307

Phần thứ hai: LỊCH SỬ                                            289


             số thuế thu được tại cửa Suất Ty tăng lên 6.500 quan, vẫn
             nhiều hơn cửa Lâm Môn (5.416 quan), nhưng ít hơn cửa An

             Lương (8.666 quan). Năm Tự  Đức thứ 1 (1848), triều  đình
             quy định phái 1 viên quan ở Kinh, 1 viên quan tỉnh tới các
             cửa tuần ở tỉnh Quảng Yên để thu thuế tại chỗ .
                                                                 1
                 Bảo Cẩm Phả  được thiết lập năm Minh Mệnh thứ 21
             (năm 1840). Bảo là một đồn lớn với số lượng binh lính khoảng

             60 người, dưới sự chỉ huy của một viên suất đội . Bảo Cẩm
                                                                     2
             Phả cách châu Tiên Yên 61 dặm về phía tây nam, có địa thế
             sát núi, liền biển , trấn giữ một khu vực quan trọng của tỉnh
                                3
             Quảng Yên.
                 Ngoài ra còn có các địa danh: Cửa Đài là tên cửa biển từ

             thời Tự Đức; Lán Nhà Sàng - Tên phố thời Nguyễn; Lập Xã -

             tên xã thuộc tổng Dương Huy thời Nguyễn; Nhà Thương,
             Phố Chợ - tên phố thời Nguyễn ở Cửa Ông ; Tài Xá - tên phố
                                                             4
             ở phường Cửa Ông,  đồng thời là tên bến phà từ Cửa Ông

             sang Vân Đồn.
                 Vùng  đất Cẩm Phả nằm trên con  đường thủy, bộ chiến
             lược nối liền các châu, huyện của tỉnh Quảng Yên thời


             _______________

                 1. Xem Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
             Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2005, t.3, tr.289.
                 2. Xem Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
             Sđd, t.5, tr.691.
                 3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd,
             t.4, tr.51.
                 4. Xem Nghiêm Hải Sơn: Địa danh thành phố Cẩm Phả xưa và nay,
             Sđd, tr.108, 121, 126.
   302   303   304   305   306   307   308   309   310   311   312