Page 306 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 306

288                                   Cẩm Phả - Đất và Người


             6 dặm rừng rú rậm rạp, thú dữ ra vào, hành khách phải
             đề phòng .
                        1
                 Cửa Suốt là địa danh xuất hiện trong nhiều thư tịch cổ
             trước thời Nguyễn với các tên gọi như Đông Kênh, Cửa Suất,
             Cửa Ông... Cửa Suốt cách châu Tiên Yên 48 dặm về phía tây

             nam, phía nam là núi đá, phía bắc kề bãi cát, từ đấy đi ngược
             lên là khe Châu Lâm và bãi cát Cẩm Phả, trên bãi cát có

             đồn, phía bắc đồn gọi là Vườn Nhãn, xưa nhà Lê dùng chỗ
             này để đày những tù phạm phải tội lưu cận châu, cách tỉnh
             hai ngày đường thủy . Đồng Khánh dư địa chí cho biết thêm:
                                     2
             “Cửa biển Suốt thuộc xã Cẩm Phả, hai bờ là bãi cát, núi rừng
             rậm rạp, phía trong cửa có  đảo Gặp Tiên  đứng sững trong

             nước, phía Tây là biển Suốt, phía  Đông là Biển  Đông, gọi
             chung là Suốt Hải. Thuỷ triều lên sâu 2 trượng 5 thước, thủy

             triều xuống sâu 2 trượng, rộng 25 trượng” . Khâm định Đại
                                                             3
             Nam hội điển sự lệ cho biết tỉnh Quảng Yên thời Nguyễn có 3

             cửa tuần thu thuế là cửa Suất Ty, cửa An Lương và cửa Lâm
             Môn. Trong đó, cửa Suất Ty (gồm 1 cửa chính và 1 cửa phụ)
             chính là cửa Suốt. Tiền ngạch thuế ở cửa Suất Ty được triều

             đình quy định nộp nửa bạc, nửa tiền. Năm Gia Long thứ 18
             (1819), số thuế thu được tại cửa Suất Ty là 3.600 quan, gấp

             gần 5 lần cửa An Lương (750 quan) và gần bằng cửa Lâm

             Môn (3.920 quan).  Đến năm Thiệu Trị thứ tư (năm 1843),
             _______________
                 1, 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd,
             t.4, tr.26, 47.

                 3. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Viễn Đông Bác Cổ: Đồng Khánh
             địa dư chí, Sđd, t.1, tr.443.
   301   302   303   304   305   306   307   308   309   310   311