Page 27 - LSDB xa Uy No
P. 27

có ý nghĩa nghe tin trong làng có chuyện buồn thì đến hỏi thăm, tùy
          thân sơ mà phúng viếng cho phải phép. Họ tộc, các gia đình thông gia
          thường phúng bằng xôi trắng và thủ lợn, bạn hữu thường phúng bằng
          tiền hoặc bức trướng. Mọi việc khi đưa đám từ đào huyệt, khiêng linh
          cữu và lấp mộ đều do hàng giáp và người làng đứng ra lo liệu.

             Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc tang ở các thôn trong
          xã Uy Nỗ vẫn theo tục lệ cũ, phiền phức và tốn kém, nhiều gia đình
          do nghèo khó không có tiền làm ma nên phải chôn cất người thân rất
          sơ sài, phải xin khất chức dịch trong làng để làm ma khô, hoặc phải
          nhờ cậy trong họ hàng giáp đứng ra lo liệu giúp. Người giàu có thì
          nhờ cả làng, rồi tổ chức ăn uống linh đình, tế lễ 3 ngày, 3 đêm mới an
          táng. Nhà có tang thường phải để chở 3 năm, sau đó con trai, con gái
          mới được dựng vợ gả chồng.
             Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở lại đây, thực hiện nếp
          sống văn hóa mới theo những quy ước của thôn làng, xã Uy Nỗ đã bỏ
          những hủ tục tang lễ không thiết thực, không cúng bái, ăn uống tốn
          kém, duy trì được phong trào tiết kiệm trong việc tang ma. Hiện nay
          các thôn đều có khu nghĩa trang riêng, có quản trang trông nom, có
          nhà tang lễ để các gia đình làm lễ khi thăm viếng, tảo mộ.

             2. Hương ước việc làng xã trước năm 1945

             Hầu hết các làng xã ở khu vực nông thôn xưa đều có lập ra hương
          ước, tục lệ riêng cho làng, đây là những tư liệu văn hóa - lịch sử cổ
          truyền có nhiều giá trị.
             Các điều khoản hương ước tục lệ do con người đặt ra, một khi con
          người tụ cư thành làng xã, bắt buộc phải đặt ra các điều lệ để ràng
          buộc lẫn nhau, khuyến khích động viên nhau làm việc. Lúc đầu, các
          quy ước cũng chỉ truyền miệng, sau đó mới cố định bằng văn bản. Tất
          cả các thôn của xã Uy Nỗ đều có hương ước.

             So với trước (chẳng hạn như các văn bản quy định về tục lệ làng
          xã), các hương ước cải lương đều có sự điều chỉnh, nhưng mức độ cụ
          thể của các điều lệ thì khác nhau.

             Trước đây, cùng với bộ luật của Nhà nước, tại mỗi làng đều có một
          bản khoán ước, có nơi gọi là tục lệ và gần đây gọi chung là hương
          ước. Những người tham gia xây dựng hương ước, tục lệ cho làng xã là
          26
   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32