Page 29 - LSDB xa Uy No
P. 29
cho thấy hương ước, tục lệ là sản phẩm văn hóa của người xưa sẽ còn
tồn tại mãi mãi.
Hầu hết các văn bản hương ước làng xã Uy Nỗ trước đây đều được
sưu tầm trong kho tục lệ của Viện Thông tin Khoa học xã hội Việt
Nam (các bản được chép tay do các lý trưởng địa phương biên soạn).
Đây là kho tư liệu phong phú và quý giá về phong tục tập quán của
các thôn, xóm trong xã.
Hương ước xã Cường Nỗ (gồm 3 thôn: Đản Mỗ, Đản Dị, Phan Xá)
được lập năm 1936 gồm 10 trang (ký hiệu Hư 4845) có điều khoản về
chính trị, thu chi, kiện cáo, sưu thuế, vệ sinh, công sản, ký ngụ, điền
thổ, lễ tiết của các thôn, việc ma chay, cưới hỏi, thưởng phạt...
Hương ước thôn Kính Nỗ (bản sao 1942) gồm 6 trang chép tay. Ký
hiệu Hư 4839 (văn bản này bị mất trang) chỉ còn có 19 điều khoản
quy định về ruộng thôn Tổ (ruộng thờ, cúng hậu đền chùa) lễ tiết của
thôn, việc ma chay cưới xin...
Hương ước xã Phúc Lộc được lập năm 1933 (bản sao năm 1942)
gồm 28 trang chép tay (Ký hiệu Hư 4838) gồm 82 điều chia làm 2
phần nội dung:
- Phần thứ nhất: Điều lệ tổng cục gồm 71 điều quy định về chính
trị, sổ thu chi, bổ sưu thuế Nhà nước, kiện cáo, canh phòng trong
làng, ngoài đồng của tuần đinh, vệ sinh, cứu cấp sửa sang đường sá,
đê điều, bảo vệ của công, học hành.
Phần thứ hai: Tục lệ gồm 11 điều (từ điều 72 đến điều 82) quy
định về sự quân điền quân thổ, hôn lễ, tang ma, khao vọng của thôn
Nghĩa Lại, tế tự, các thứ thuế của làng và những tiền lệ khác.
Hương ước là luật lệ làng bắt buộc các thành viên phải tuân thủ.
Hương ước gắn bó các thành viên trong một cộng đồng tương đối chặt
chẽ và tự nguyện, lệ thuộc lẫn nhau, phục tùng làng xã.
3. Các tổ chức nắm quyền ở làng, xã
Bộ máy điều hành ở các làng, xã gồm 2 thiết chế:
- Hội đồng kỳ mục: Là tổ chức quản lý truyền thống văn hóa - xã
hội của từng làng, làm nhiệm vụ điều chỉnh các mối quan hệ nội bộ
cộng đồng dân cư như đấu thầu ruộng đất công, sử dụng quỹ công
28

