Page 37 - LSDB xa Uy No
P. 37
thờ An Dương Vương). Vua lên đường sang thăm chó quý. Trước mắt
vua bày ra một cảnh tuyệt thú, dòng Hoàng Giang uốn lượn từ phía
đông nam sang phía tây nam, như ôm ấp, như chở che cho Chạ Chủ...
Sau khi xem xét kỹ địa thế vùng Chạ Chủ, An Dương Vương bàn bạc
cùng Cao Lỗ và các triều thần khác, sau cùng đã quyết định dời đô
về Chạ Chủ...”.
Đoạn tiếp sau chép: “... Theo tục ngày trước, hằng năm tới ngày 6
tháng Giêng, dân làng Tó lại tổ chức tế lễ, thờ vọng An Dương Vương.
Bao giờ kiệu rước cũng chỉ ra tới “Gò Vua” (gò giáp giới Cổ Loa và Tó),
vọng bái về phía Cổ Loa rồi quay trở lại. Đầu mỗi bài văn tế đều ghi
“Uy Nỗ tổ thôn” dường như trong đó còn vang vọng kỷ niệm về một
thời xưa cũ, Uy Nỗ là nơi An Dương Vương định kinh định sự nghiệp
lớn lao tại đó (thôn Tó xã Uy Nỗ)”.
Có thể khẳng định, làng Tó (Uy Nỗ) nơi đã ghi lại nhiều dấu tích
lịch sử liên quan đến An Dương Vương, đến Cổ Loa (vùng đất Chạ
Chủ). Điều này thể hiện qua truyền thuyết về chuyện An Dương
Vương dừng chân hạ trại trước khi xây thành, qua tín ngưỡng thờ
vua An Dương Vương với các đạo sắc phong được ban từ triều hậu
Lê, Lê trung hưng đến triều Nguyễn, cùng những nét văn hóa tương
đồng như: ăn bún xào cần ngày hội, tổ chức hội rước vua vào mùng 4
tháng Giêng, đến những tên gọi làng, xã mang dấu ấn của triều đại
vua Thục với: Uy Nỗ (uy của nỏ thần), Kính Nỗ (sự kính cẩn với nỏ
thần), Cường Nỗ (sức mạnh của nỏ thần), Oai Nỗ (sự uy nghiêm, uy
lực của nỏ thần), đặc biệt là những dấu tích đến nay vẫn còn như:
gò Vua, vườn Chúa... Tất cả là minh chứng rõ nét cho thấy mối quan
hệ giữa làng Tó với Cổ Loa, với Thục Phán - An Dương Vương, ngay
từ buổi đầu vua rời Bạch Hạc - Việt Trì tìm vùng đất mới định đô
dựng nghiệp.
Cũng như bao di tích lịch sử văn hóa khác, đền làng Tó luôn là nơi
sinh hoạt văn hóa tâm linh, nơi giáo dục truyền thống cho Nhân dân
và là nơi giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” cho mỗi thành viên
tại địa phương. Hằng năm, tại làng Tó, lễ hội được tổ chức vào mùng
4 tháng Giêng (trước lễ hội Cổ Loa 2 ngày).
Về niên đại khởi dựng đền, hiện nay không còn tài liệu nói về năm
khởi dựng của ngôi đền. Khảo sát tại di tích, tư liệu thành văn hiện còn
36

