Page 58 - Ta?^p san ky? nie?^m 50 na?m TL tru?o?`ng_xua^´t ba?n la^`n 3
P. 58
Mái trường xưa
Nguyễn Trọng Ba - Cựu học sinh Lớp D – niên khóa 1974-1977
T dựng, lúa gạo.... Khi về xuôi những chiếc buồm được
háng 9 năm 1974, chỉ sau Hiệp định Pari về
chấm dứt chiến tranh Việt Nam gần một năm
dựng lên no gió, thuyền trôi theo dòng nước trong
thì tôi được vào lớp 8 trường cấp 3 Tân Yên 2 - xanh, trên khoang cơ man là sản vật Tây Bắc. Mỗi khi
Hà Bắc. Xóm có 4 anh em đi thi thì có 3 người đỗ gồm: tan học, đứng từ trên bờ nhảy cắm đầu xuống dòng
La, Thiết, Ba. Trong đó, tôi nhỏ nhất về thể hình. nước trong xanh mát rười rượi ấy đùa nghịch chí chóe
Trường cách nhà khoảng trên 3 km, trên một khoảng và ngụp lặn sao mà thỏa thích đến vô cùng. Khóa
đất rộng chừng 2 ha ngay cạch xóm Kép Vàng thuộc 1974 năm ấy có 4 lớp 8 (A, B, C, D). Lớp tôi là lớp D
xã Lam Cốt, huyện Tân Yên. Khu đó là ruộng một vụ gồm những học sinh từ các xã Lan Giới, Quang Tiến,
lúa, một vụ màu, phía trên ngay phía trước cổng trường Đại Hóa, Phúc Sơn, sau khi học một thời gian thì có
là một đồi thấp, có 01 điếm nhỏ. thêm một số bạn ở Song Vân, Ngọc Thiện, Ngọc Vân
Tôi và các bạn thường đi bộ đến trường. May – Tân Yên và Hoàng Thanh – Hiệp Hòa chuyển đến.
mắn lắm có hôm bố tôi không đi họp hoặc công tác Trường mới thành lập, bộn bề bao nhiêu khó
xa nhà thì ông mới cho mượn xe đạp để đi đến lớp. khăn thiếu thốn về cơ sở vật chất. Chúng tôi còn nhỏ
Xe ngày đó là một thứ gì đó xa xỉ và quý hơn ô tô bây nhưng đã cùng các Thày cô ngoài giờ học thì lao
giờ. Ông được phân phối một chiếc xe đạp, ban đầu động cật lực, sẻ đồi san đất, đóng gạch, trát vách …tất
đã lấy xe Phượng Hoàng - Trung Quốc rất đẹp, nhưng tần tật việc gì cũng làm. Rất may, chúng tôi chủ yếu
đi mấy ngày ai cũng chê là nặng nên đem đổi lấy xe xuất thân từ nhà nông nên không ngại việc gì, tuy có
Thống Nhất nam. Hôm có xe đạp, 3 “thằng” đều ngồi gày đen nhưng rất khỏe, biết làm và thích được lao
lên đó, La cao to nhất ngồi giữa cầm lái và đạp xe, động chân tay. Các thày cô cũng vậy, luôn tham gia
Thiết ngồi gác ba ga, tôi ngồi khung phía trước. Con lao động cùng học trò, cùng chia sẻ cơm nắm, muối
đường chúng tôi đến trường hàng ngày là những bờ vừng mà chẳng có sự phân biệt. Chả thế mà, tuy nhà
ruộng cỏ mọc xanh rì, lúa ngô, khoai sắn và những tranh vách đất nhưng trường lớp luôn sạch sẽ, gọn
vạt bạch đàn, phi lao luôn rì rào trong ánh nắng ban gàng, ngăn nắp, không lúc nào thiếu đi những nụ cười
mai rực rỡ vẫy chào và hi vọng. Qua cầu Chản, chúng vô tư sảng khoái.
tôi còn đi trên con kênh sông đào với những cây cầu Trường khi đó, cổng bằng tre nằm phía Đông
treo, cầu vồng và âu thuyền được xây dựng từ thời Nam, ngay bên trái sát lớp A, tiếp lớp B thẳng hàng;
Pháp thuộc. Con sông đào ấy, nước luôn ăm ắp, trong lớp C, D vuông góc về phía Tây. Qua đầu lớp tôi là một
xanh và chảy thẳng về xuôi. Ngày đó, sông đào là một khoảng trống rồi đến dãy lớp của các anh chị khóa
huyết mạch giao thông thủy kết nối từ Sông Thương 1973 và trường Tân Yên 1 chuyển về. Sân trường
lên Thái Nguyên. Chúng tôi rất thích đứng xem những không rộng lắm ở giữa các dãy nhà, nền đất có rải sỏi
chiếc thuyền có 5-6 người đi trên bờ dùng chão kéo cơm cho đỡ trơn trượt; phía Đông Bắc là dãy nhà Ban
tiến về phía trước; trên thuyền chở đầy vật liệu xây Giám hiệu và khu thư viện, nhà ở cho giáo viên. Trong
56