Page 67 - 27.9 Sách trai Cầu Vồng Yên thế
P. 67

cường quyền. Tuy ít học, nhưng ông cởi mở, giao du rộng trong vùng, sớm bộc

                  lộ tư chất của một thủ lĩnh bởi khả năng thu hút, tập hợp những người cùng chí
                  hướng. Những sự kiện như uất ức rồi đốt nhà Lý Mấm, rồi lại kết hợp với Lý

                  Mấm làm Trương tuần, huấn luyện đội quân của làng Hà chống lại Chánh Tước

                  ở làng bên. Kết nghĩa anh em với Lý Sặt ( Đỗ Văn Hùng) ở làng Dương Sặt
                  huấn luyện cả hai đội dân binh làng Hà  100 người và Dương Sặt 300 người. Đội

                  quân  400  người  hỗ  trợ  cho  nhau  để  giữ  làng…tất  cả  đã  làm  cho  tiếng  tăm

                  Trương Tuần Nắm nổi lên khắp vùng. Trước năm 1884, Lương Văn Nắm đã
                  lãnh đạo dân làng Thế Lộc chống lại Thanh phỉ. Dân binh theo ông rất đông và

                  đánh cho thổ phỉ Lý Dương Tài thua liểng xiểng dù được trang bị đầy đủ vũ khí
                  súng đạn với đội quân đông tới hàng ngàn người.


                        Ngày  16/3/1884, giặc  Pháp  sau khi  đánh  chiếm  thành  Tỉnh Đạo  rồi  tiến
                  quân lên Thái Nguyên, ông đã cùng nghĩa binh của mình chặn đánh giặc quyết

                  liệt tại Đức Lân, Phú Bình, Thái Nguyên khiến cho giặc Pháp bị thất bại nặng nề
                  và phải tháo chạy. Sau trận đánh này, cũng trong ngày 16/3/1884 Lương văn

                  Nắm dẫn toàn bộ nghĩa binh của mình về đình Hả làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Đây

                  là sự kiện có ý nghĩa mở đầu cho phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế
                  chống thực dân Pháp xâm lược kéo dài gần 30 năm (1884 - 1913).


                        Để xây dựng lực lượng, và chuẩn bị chiến đấu lâu dài với quân Pháp, Đề
                  Nắm cho quân sĩ lui về Khám Nghè (Cầu Gồ) xây dựng hệ thống đồn, ban đầu

                  gồm có 4 đồn: Tả dinh, Tiền dinh, Trung dinh và Hậu dinh. Với tiếng tăm của

                  ông, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân đã về hội tụ như Bá Phức, Đề Thám…và căn cứ
                  của nghĩa quân được mở rộng phát triển thành hệ thống 7 đồn chính. Đồn số 1

                  do Đề Nắm trực tiếp chỉ huy gọi là đồn Đề Nắm; đồn số 2 do Đề Lâm cai quản,

                  nên còn gọi là đồn Đề Lâm. Đồn số 3 do Đề Truật quản lý. Đồn số 4 do Đề
                  Trung giữ. Đồn số 5 do Đề Dương (tức Đề Thám giữ). Đồn số 6 do Tổng Tài

                  giữ. Đồn số 7 do Bá Phức giữ. Trong 8 năm đầu của cuộc khởi nghĩa (1884 đến
                  1892), Đề Nắm đã lãnh đạo nghĩa quân củng cố và phát triển lực lượng, ngoan

                  cường chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp vào vùng Yên Thế. Dưới sự
                  lãnh đạo của ông và các thủ lĩnh khác, nghĩa quân Yên Thế đã có nhiều trận

                  đánh tiêu hao sinh lực địch, làm cho giặc Pháp nhiều phen khốn đốn. Nổi tiếng

                  là trận đánh tại Cao Thượng vào năm 1890 và 4 lần đánh bại các đợt tấn công
                  của Pháp vào Hố Chuối. Trận đánh đặc biệt ác liệt nhất diễn ra từ ngày 25-3 đến

                  31-3-1892. Trận đánh này, Pháp dồn lực tổng tấn công vào các đồn trại khiến





                                                              67
   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72