Page 56 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 56
54 XỨ ĐÀNG TRONG
làng . Nhưng nếu chúng ta lấy con số 10.228 làng của năm 1539
1
trừ đi số làng của Thuận Hóa và Thăng Hoa (755), chúng ta vẫn
còn thiếu 803 làng, ấy là không kể số làng có thể đã được lập
trong vòng 100 năm. Sự sút giảm này cho thấy dân số vào cuối
thế kỷ 16 đã giảm mất 441.650 người, trong khi đó con số đưa
ra cho thập niên 1760 có lẽ đã bao gồm cả những mất mát vào
đầu thế kỷ 18.
Điều đáng tiếc là chúng ta không có một con số nào về cuối
thế kỷ 17. Tuy nhiên các con số của đầu thế kỷ 17 và đầu 18 cho
thấy là con số có tăng, nghĩa là có sự gia tăng dân số trong thế
kỷ 17. Qua Lê triều chiếu lệnh thiện chính, chúng ta biết được
là, chính quyền trong các năm 1649, 1662, 1663, 1664 và 1698
có lệnh cấm dân chúng lao đầu vào các trò chơi như chọi gà,
đánh cờ, đánh bạc. Các trò tiêu khiển loại này là những dấu hiệu
cho thấy một xã hội “khoẻ mạnh” vì chúng ta không thấy có
ghi như vậy trong suốt thế kỷ 16. Cũng vậy, theo Trương Hữu
Quýnh, một sử gia Việt Nam chuyên về chế độ ruộng đất, thì
lệ thuế đất chi tiết nhất từ thế kỷ 16 đến 18 được ban hành vào
các năm 1625 và 1664 . Người ta không nghĩ là những quy định
2
chi tiết về thuế má lại có thể được thiết lập vào những năm có
xáo trộn hay có nạn đói kém.
Trừ phi có những nguồn tư liệu mới chứng minh ngược lại,
tôi vẫn nghĩ là biểu đồ dân số Việt Nam tại miền Bắc có hai
khúc lên và hai khúc xuống. Biểu đồ này tương phản với bảng
dân số Việt Nam Mc Evedy và Jones đưa ra trong Atlas of World
Population History (bản đồ lịch sử dân số thế giới). Bảng này
cho thấy có sự gia tăng liên tục từ 2 triệu vào năm 1500 đến
3 triệu năm 1700 và 4 triệu năm 1800. Nhưng theo tôi, dân số
1 Địa dư chí, trg.735.
2 Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, quyển 2, trg.118.
www.hocthuatphuongdong.vn