Page 53 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 53
VÙNG ĐẤT MỚI 51
định, chỉ là “số đàn ông tuổi từ 18 đến 59, chẳng may bị người
thu thuế biết đến” . Các con số đinh được đưa ra thường hoặc
1
là quá cao đến cái mức không thể nào tin được hoặc chắc chắn
là quá thấp, như bảng thống kê trên đây cho thấy. Trong khi đó,
con số các làng tương đối nhất quán trong nhiều thế kỷ, bởi vậy,
chúng cho chúng ta một cơ sở đáng tin cậy hơn để nghiên cứu
lịch sử dân số Việt Nam.
Tuy nhiên, phải tính kích thước trung bình của làng Việt
Nam như thế nào? Để tính dân số từ con số các làng, chúng ta
cần có một con số có phép thần thông. Tôi đã chọn lý (có nghĩa
là 110 hộ), vì những lý do sau. Trước hết, mặc dù đây là một quy
định của chính quyền đô hộ nhà Minh nhưng khẳng định của
Toàn thư về kích thước của làng vào năm 1490, như được nêu
trên đây, cho thấy rằng con số trung bình 110 hộ của làng có thể
là một phỏng đoán hợp lý. Thứ đến, nhận xét của Gourou vào
năm 1931 cho rằng trong số 6.639 làng tác giả liệt kê, có 2.100
làng có số dân từ 500 đến 2.100. Mặc dù dân số trung bình của
các làng là 910, do có sự gia tăng dân số từ cuối thế kỷ 19, các
con số này cũng để lộ dấu vết về kích thước cũ của làng.
Để kiểm chứng xem kích thước này có thể chính xác (một
cách tương đối) đến mức độ nào, tôi đã thử làm một con tính
từ một nguồn tư liệu khác của thế kỷ 19. Theo Tên làng xã Việt
Nam đầu thế kỷ 19, một cuốn sách liệt kê các làng ở miền Bắc
tới Nghệ An vào năm 1809 thì dân số đã giảm tại 11 làng trong
huyện Nam Xương thuộc Sơn Nam. Các làng này trước đây có
1.123 suất đinh, tức trung bình 102 đinh mỗi làng .
2
So sánh số đinh vào thời Tiền Lê với số làng trong mỗi tỉnh
1 Alexander Woodside, Viêtnam and the Chinese Model, Harvard University Press, Cambridge,
Massachusetts, 1971, trg.158.
2 Tên Làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1981, trg.57.
www.hocthuatphuongdong.vn