Page 48 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 48
46 XỨ ĐÀNG TRONG
việc không thể viết về lịch sử công cuộc định cư tại đồng bằng
Bắc bộ vào lúc này”. Khi vật lộn với vấn đề dân số Việt Nam
vào các thế kỷ qua, tôi nhận thấy là mình phải đấu tranh chống
lại khuynh hướng tiếp tục chấp nhận và sử dụng lại tiêu đề này
của Gourou, sau sáu thập niên.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tự hỏi xem còn có một cách
nào khác ngoài cái gọi là điều tra dân số, để từ đó chúng ta có
thể thiết lập một cơ sở tương đối vững chắc để ước tính dân số
Việt Nam trong quá khứ? Xem xét một cách kỹ lưỡng, tôi nhận
thấy là, ngoài nguồn tư liệu, đặc điểm của địa lý lịch sử Việt Nam
có thể giúp chúng ta trong công việc nghiên cứu về dân số này.
Đặc điểm ấy chính là tầm quan trọng của làng Việt Nam. Tại
Trung Hoa, người ta luôn nhấn mạnh vào hu (gia đình, hộ) và
kou (sổ sách), trong khi đó tại Việt Nam thì lại khác, xã (làng)
luôn luôn là đơn vị quan trọng, có lẽ nó phản ánh tầm quan
trọng của xã trong di sản của Việt Nam . Phải chăng do ngẫu
1
nhiên mà ngày nay trong khi chúng ta hầu như không có gì
ngoài một vài con số hiếm hoi về dân số do Nguyễn Trãi cung
cấp trong bộ Địa dư chí của ông, thì hầu hết các bộ sách về địa
lý lịch sử lại khá phong phú về con số làng, xã trong các thời kỳ
lịch sử khác nhau?
1 Gần như luôn luôn có xung khắc giữa chính quyền trung ương và xã mỗi khi có điều tra dân số. Xem
bản trình bày của xã Võ Liệt nói đến trên đây và Toàn thư. Hai viên chức đã tỏ ra cứng rắn về vấn đề
này trong các thời kỳ khác nhau: một là Nguyễn Công Khang, người đã muốn đưa ra một điều luật
đăng bộ khắt khe vào năm 1722. Luật này đã làm nhiều người phải bỏ làng đi nơi khác và đã bị các
viên chức trong chính quyền công kích. Ông được lệnh phải tự sát vào năm 1733. Người thứ hai là Lê
Quý Đôn vào năm 1770. Ông này cũng làm cho “dân nghiến răng căm ghét”, như được tả trong Toàn
thư. Kẻ thù của ông làm áp lực để chính quyền sa thải ông. Người ta đã đi đến một thỏa hiệp và cuộc
kiểm tra năm đó “ở một mức độ nhẹ hơn cuộc kiểm tra của những năm Bảo Thái (1720-1728)”. Điều
này còn chứng tỏ rằng cái gọi là “kiểm tra dân số vào thế kỷ 18 thường là kết quả của nhiều cuộc mặc
cả thỏa hiệp giữa làng Việt Nam và chính quyền trung ương. Một điều khá lý thú là được thấy cứ mỗi
lần chính quyền tìm cách siết chặt quyền kiểm soát của mình thì người dân lại bỏ trốn. Làng, xã luôn
tìm cách giảm con số những người đăng bộ, như một câu tục ngữ nổi tiếng của người Việt Nam cho
thấy: “Phép vua thua lệ làng.” Có lẽ biện pháp kiểm tra dân số đã thất bại bởi vì các viên chức thời này
biết là họ khá xa sự thật, trong khi con số làng, xã lại tương đối chính xác?
www.hocthuatphuongdong.vn