Page 45 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 45
VÙNG ĐẤT MỚI 43
Tới đây, chúng ta thử tìm hiểu kích thước của một làng mẫu
ở Việt Nam. Năm 1931, Gourou cho rằng làng ở Bắc bộ trung
bình có số dân từ 500 đến 2.100. 97 làng lớn nhất của tỉnh Hà
Đông và Hà Nam Ninh có từ 4.000 đến 5.000 dân mỗi làng .
1
Làng ở Thanh Hóa và Nghệ An không lớn như vậy nên chúng
tôi lấy con số trung bình là từ 500 đến 2.000 người mỗi làng.
Báo cáo của xã Võ Liệt nói tới trên đây cho thấy cách tính này
là đúng. Báo cáo nói là số người phải nhập ngũ được ấn định
cho xã là 87 người. Theo điều lệ của nhà Lê thì tại hai vùng
Thanh Hóa và Nghệ An, cứ 5 đinh thì một người phải nhập
ngũ. Chúng ta cũng nên nhớ là những người đã từng đứng
đầu làng, những người đã từng ra làm quan và những người
đã từng đi thi cử trong làng của người Việt Nam trước đây đều
được miễn nghĩa vụ quân sự. Tại xã Võ Liệt, người ta tính có
44 người thuộc loại này. Như thế, một làng có 87 người phải
nhập ngũ thì hẳn là phải có khoảng 440 đinh hay hơn nữa. Và
nếu một làng có khoảng 500 đàn ông thì tổng số dân trong làng
ít ra phải là 2.000, bởi vì chúng ta nên nhớ là số đàn ông trong
làng thường cao hơn số người đăng bộ và dĩ nhiên là người ta
không tính số đàn bà và trẻ em.
Và hẳn là chúng ta sẽ phải sửng sốt khi được biết là giữa các
thập niên 1730 và 1750, 15% số làng tương tợ đã không còn tồn
tại. Cương mục viết :
2
“Từ các năm 1735-1739, cả vùng lâm vào tình trạng rối loạn,
đặc biệt ở vùng Hải Dương. Tại đây, người dân chẳng trồng trọt
được gì và đã ăn hết số thóc gạo dự trữ. Tình hình ở Sơn Nam
có khá hơn một chút, do đó, các con đường dẫn tới đây đều đông
nghẹt những kẻ ốm đói. Giá gạo tăng đến độ 100 tiền không đủ
1 Gourou, quyển 1, trg. 162.
2 Cương mục, quyển 7, trg. 3523.
www.hocthuatphuongdong.vn