Page 53 - ChandungVH
P. 53
Thế Lữ, tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Sau
đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ vì ông là con thứ. Khi lên 10 tuổi, người anh trai (hơn ông 1 tuổi)
mất, lại đổi lại thành Nguyễn Đình Lễ. Lớn lên ông dùng lại tên Nguyễn Thứ Lễ, khi viết văn nói lái
lại là Nguyễn Thế Lữ, sau rút gọn thành Thế Lữ.
Bút danh: Thế Lữ, mang nghĩa "người khách đi qua trần thế". Khi viết báo, đôi khi ông ký bút danh
hài hước Lê Ta, xuất phát từ tên Lễ biến thành "Lê ngã", "ta" cũng tức là "ngã".
Sáng tác thơ từ 15, 17 tuổi; viết nhiều văn chương, là người sớm có mặt trong nhóm Tự lực văn
đoàn. Với sự ra đời của một loạt tác phẩm: Tiếng sáo thiên thai, Cây đàn muôn điệu, Nhớ rừng…
Thế Lữ đã trở thành người sáng lập, người mở đầu của phong trào Thơ mới... trở thành Chủ tịch đầu
tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957-1977).
Thế Lữ qua đời do tuổi già vào ngày 3 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 81
tuổi.
Giải thưởng:
Danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II
năm 2000
* Bình luận:
Lê Đình Kỵ: “Trong thơ ca lãng mạn 1932 - 1945, không nói tới tình yêu, không đi sâu vào những
tình cảm riêng tư mà gây được tác động mạnh trước hết phải kể đến “Nhớ rừng” nổi tiếng của Thế
Lữ”
Theo Nguyễn Hoành Khung, thơ Thế Lữ thể hiện "cái tôi" muốn thoát ly với xã hội; ở một số bài
thơ (Người phóng đãng, Con người vơ vẩn, Tự trào...), ông tạo dựng hình ảnh một kiểu người tài tử,
bất hòa với xã hội, chán ghét cuộc sống trưởng giả, sống ngông nghênh, cô độc và kiêu hãnh. Thơ
Thế Lữ nói lên khát khao được sống tự do, thoát khỏi tù túng để đến với thế giới bao la hơn. Bài thơ
Nhớ rừng mượn lời con hổ trong vườn bách thảo, được xem là đã diễn tả tâm sự của một lớp người
đang đau khổ trong cuộc sống "bị nhục nhằn tù hãm", chán ghét thực tại tầm thường giả dối, nhưng
bất lực và chỉ biết chìm đắm vào dĩ vãng oai hùng, thể hiện tư tưởng giải phóng cá nhân và khát
vọng tự do;
Hà Minh Đức nhận xét: "Thơ Thế Lữ giàu chất lãng mạn, trữ tình. Hình ảnh thơ đẹp, giọng điệu thơ
mềm mại, trau chuốt. Tuy nhiên, cảm hứng thơ ít phát triển, hình tượng thơ có ít biển hóa và trong
một số trường hợp rơi vào đơn điệu".
Lê Tràng Kiểu cho rằng, thơ Thế Lữ chỉ có giá trị ở những bài "có ít nhiều vẻ tiên", còn lại có nhiều
bài lại thật dở: "vần điệu lủng củng, ý tứ ngớ ngẩn trẻ con, tình cảm giả dối hết sức, và câu kéo lôi
thôi quá". Lê Tràng Kiều đánh giá: "thơ Thế Lữ chỉ phơn phớt ngoài tâm hồn", chứ không đi sâu
vào tâm hồn người đọc như thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ, Thái Can, và kết luận rằng: "Thế Lữ là
một nhà thơ kém hoàn toàn hơn hết".
Uyên Thao khi bình luận, cũng cho rằng Thế Lữ chỉ hoàn toàn thành công ở một số bài như Nhớ
rừng, Ý thơ, Tiếng sáo Thiên Thai, Giây phút chạnh lòng, còn lại thì chỉ thành công ở từng tiếng,
từng âm, trong mỗi đoạn, mỗi câu.