Page 160 - Cuốn 70 năm (c)
P. 160
Thuấn Du . Ông đỗ khoa Hoành từ, năm Tân Hợi, niên hiệu
1
Thuận Thiên 4 (1431) đời Lê Thái Tổ. Nguyên là họ Hoàng,
sau đổi họ Trần, rồi đổi sang họ Trình.
Trình Thanh làm quan qua 4 đời vua đời Lê sơ, hai lần
vâng lệnh đi sứ sang nhà Minh (Đại Việt sử ký toàn thư ghi
1 lần, vào năm cuối năm Thái Hòa thứ nhất, 1443), trải qua
các chức Nội mật viện chánh chưởng Hàn lâm viện, Tri chế
cáo, Môn hạ sảnh hữu thị lang trung, Tham tri Hải Tây đạo
quân dân bạ tịch, kỵ đô uý (Đại Việt sử ký toàn thư năm Đại
Hòa thứ 6 (1448) ghi lấy Nội mật viện Hoàng Thanh làm
Hàn lâm viện Thị độc. Hoàng Thanh nói ở đây tức Trình
Thanh). Cuối năm 1459, ông đi sứ nhà Minh. Năm Quang
Thuận thứ 3 (1462) đời vua Lê Thánh Tông, ông được bổ chức
Môn hạ sảnh hữu thị lang trung, Tham tri Hải Tây đạo quân
dân bạ tịch, sử ghi: Bây giờ nhân có tai biến, mưa đá, vua
xuống chiếu cầu lời nói thẳng, Hoàng Thanh dâng sớ tâu bảy
điều nên kính cẩn hiệp ứng mệnh trời, vua chọn lấy để thi
hành.
Nguyễn Bá Ký, ông là người làng Viên Nội, huyện
Chương Đức, trấn Sơn Nam, này là xã Viên Nội, huyện Ứng
Hòa. Ông đỗ Hoàng giáp Khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu
Thái Hòa thứ 6 (1448) đời vua Lê Nhân Tông. Năm 1452, ông
được cử làm Phó sứ sang nhà Minh; sau thăng đến Thượng
thư, Tế tửu Quốc Tử Giám, kiêm Văn Minh điện học sĩ, Nhập
thị kinh diên, tước Quận công.
Năm 1463, ông đang làm Tế tửu Quốc Tử Giám, được cử
làm Dâng quyển. Sau ông về làng trí sĩ, mất năm 1465. Tác
phẩm hiện còn chỉ là một bài thơ chữ Hán chép trong Toàn
_______________
1. Trình Thuấn Du đỗ khoa Minh Kinh, năm Kỷ Dậu, năm Thuận Thiên thứ
2 (1429) đời Lê Thái Tổ.
160