Page 165 - Cuốn 70 năm (c)
P. 165
được ghi trong bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội).
Mai Danh Tông, ông sinh năm 1706 tại làng Cao Lãm,
huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam, nay thuộc xã Cao Thành,
huyện Ứng Hòa. Từ nhỏ, ông nổi tiếng thông minh lại được
cậu ruột cùng làng là Hoàng giáp Nguyễn Duy Đôn, đỗ Đình
nguyên khoa thi Nhâm Thìn (1712) dạy dỗ, nên 26 tuổi ông
đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731). Ông từng giữ chức vụ Giám
sát ngự sử Kinh Bắc. Đốc trấn hai xứ Lạng Sơn, Cao Bằng.
Thời gian này, ông có công dẹp giặc đến quấy phá biên cương.
Cuối đời, ông làm ở Viện Hàn lâm, hiệu đính sách sử, soạn
thảo chủ trương, chính sách giúp triều đình với chức Hiệu
thư, tước bá. Đương thời, ông là người giỏi văn chương, tham
gia nhiều cuộc xướng họa, thi tài trong nước. Tiếc rằng năm
tháng loạn lạc, những bài thơ, áng văn hay của ông bị thất
truyền nhiều. Khi về hưu ông còn để lại thơ tặng các quan
trong triều. Tên tuổi ông được ghi trong bia Văn Miếu - Quốc
Tử Giám (Hà Nội).
Mai Nghĩa Chính, ông là em trai của Tiến sĩ Mai Danh
Tông, thi đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ
2 (1736) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến Hiệu lý ở Viện
Hàn lâm. Sau ông đổi tên là Mai Trọng Tương. Tên tuổi ông
được ghi trong bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội).
Đặng Dụng Chu, ông sinh năm 1737 tại làng Động Phí,
huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam, nay thuộc xã Phương Tú,
huyện Ứng Hòa, thi đỗ Tiến sĩ khoa thi Bính Tuất, năm
Cảnh Hưng thứ 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông. Làm quan
đến chức Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Tham Chính Thái
Nguyên. Tên tuổi ông được ghi trong bia Văn Miếu - Quốc Tử
Giám (Hà Nội).
Nguyễn Trọng Hoành, ông sinh năm 1737 tại làng Viên
Ngoại, huyện Chương Đức, trấn Sơn Nam, nay là thôn Viên
165