Page 168 - Cuốn 70 năm (c)
P. 168
ghi trong bia Văn Miếu - Huế. Dương Khuê thuộc số những
quan lại đứng về phe chủ chiến đã dâng sớ lên triều đình
Huế bàn phải quyết chiến với Pháp. Vua Tự Đức phê ông là
“Bất thức thời vụ” (Không hiểu thời cuộc) và đẩy đi làm quan
Chánh sứ sơn phòng trông nom việc khai khẩn đất hoang.
Thất vọng về thời cuộc, Dương Khuê cáo quan về trí sĩ ở tuổi
58. Ông mất năm 1902, thọ 64 tuổi. Ông có tài văn học, giỏi
làm thơ Nôm, sáng tác nhiều ca trù, có những đóng góp nhất
định vào sự định hình và phát triển thể hát nói và nghệ
thuật ca trù của dân tộc. Tác phẩm có: Vân Trì thi thảo, Vân
Trì đối liên tịnh thi tập, Vân Trì văn trướng tập...
Nguyễn Viết Bình, người xã Đặng Xá, huyện Yên Đức,
tỉnh Hà Nội, nay thuộc Hòa Phú, Ứng Hòa. Ông sinh năm
Nhâm Tý, đỗ Cử nhân khoa thi Giáp Thân (1884). Năm 38,
tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi
Kỷ Sửu, năm Thành Thái thứ 1 (1889). Ông làm quan đến
Đốc học Hưng Yên.
Nguyễn Thượng Hiền, ông tên tự là Đỉnh Nam, Đỉnh
Thần, tên hiệu là Mai Sơn, sinh năm 1868 tại xã Liên Bạt,
huyện Sơn Minh, nay thuộc xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa.
Ông là dòng dõi thế khoa, thân phụ ông là Nguyễn Thượng
Phiên đỗ Hoàng khoa thi Ất Sửu (1865). Thuở nhỏ, ông học
giỏi; 18 tuổi, đỗ Cử nhân; 27 tuổi, đỗ Tiến sĩ Đệ nhị giáp
(Hoàng giáp) khoa thi Nhâm Thìn (1892). Ông làm quan dưới
triều đình Nguyễn, thăng đến chức Đốc học Ninh Bình, Đốc
học Nam Định. Năm 1907, sau khi vua Thành Thái bị phế
truất, ông bỏ quan xuất dương tìm cách cứu nước, cùng Phan
Bội Châu vận động Đông du và lãnh đạo tổ chức Việt Nam
Quang Phục hội. Nguyễn Thượng Hiền là nhà khoa bảng có
danh tiếng, nên việc ông xuất dương rất có ảnh hưởng tới dân
chúng, gia tăng thanh thế cho phong trào Đông du. Ông được
168