Page 166 - Cuốn 70 năm (c)
P. 166

Ngoại, xã Viên An, huyện Ứng Hòa, thi đỗ Tiến sĩ khoa Bính
                           Tuất, năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông.
                           Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị giảng, Tri công phiên,
                           được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh. Khi về thăng Đông
                           các Đại học sĩ. Tên tuổi ông được ghi trong bia Văn Miếu -
                           Quốc Tử Giám (Hà Nội).
                                Nguyễn  Du,  ông  sinh  năm  1754  tại  làng  Viên  Ngoại,
                           huyện  Chương  Đức,  trấn  Sơn  Nam,  nay  thuộc  thôn  Viên

                           Ngoại, xã Viên An, huyện Ứng Hòa; nguyên quán xã Văn Xá,
                           huyện Thanh Oai, nay thuộc xã Phú Lãm, huyện Thanh Oai.
                           Trước  ông  từng  làm  quan  Tri  huyện,  năm  32  tuổi  thi  đỗ
                           Hoàng giáp khoa Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46 (1785)
                           đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư,
                           Thiêm  đô  ngự  sử.  Khi  Nguyễn  Huệ  đưa  quân ra  Bắc (năm
                           1788), ông đến dự buổi tiếp kiến, được bổ chức Hàn lâm trực
                           học sĩ để cùng làm việc với Ngô Thì Nhậm và Ngô Văn Sở.
                           Đầu đời Gia Long, được giữ chức Đốc học Bắc Thành, ông là

                           tác giả bài bia ở chùa Phổ Tế, làng Đống Vũ rất nổi tiếng.
                                Bùi  Tuấn,  ông  sinh  năm  1808  tại  xã  Liên  Bạt,  huyện
                           Sơn Lãng, tỉnh Hà Nội, nay là xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa,
                           thi đỗ Giải nguyên khoa thi Canh Tý (1840). Năm 34 tuổi, đỗ
                           Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Tân Sửu, năm
                           Thiệu Trị thứ 1 (1841), được bổ làm Tri phủ Thọ Xuân. Năm
                           Tự Đức thứ 1 (1848), được điều về Kinh đô Huế, bổ chức Tập
                           hiên viện,  về  sau  từng  giữ các  chức  Kinh  diên  khởi  cư  trú,
                           Thị  giảng  học  sĩ,  Án  sát  Sơn  Tây,  Án  sát  Bắc  Ninh,  thăng
                           hàm Quang lộc tự khanh, quyền Bố chánh sứ, Tuyên phủ sứ
                           đạo Phú Yên. Năm Tự Đức thứ 15 (1862), được làm Bố chánh

                           tỉnh Bắc Ninh. Năm Tự Đức thứ 22 (1869), được làm Tuần
                           phủ hộ lý Ninh - Thái Tổng đốc. Năm Tự Đức thứ 25 (1872),
                           làm quyền Tổng đốc Ninh Thái. Khi mất, được truy tặng làm
                                                             166
   161   162   163   164   165   166   167   168   169   170   171