Page 380 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 380

Tiếng Việt Tuyệt-Vời  Đỗ Quang-Vinh

            tại Nga-sô, thả bom nguyên-tử xuống đất Nhật, có thể được
            bào-chữa nhưng chỉ là bằng những luận-cứ quá phũ-phàng
            và chẳng đúng với những mục-tiêu mà các đảng-phái chính-
            trị đã từng tuyên-bố. Ngôn-ngữ chính-trị vì thế ắt đầy-dẫy
            những xảo-ngữ, những vấn-nạn hoàn-toàn mập mờ. Những
            thôn  ấp  không  được  tự-vệ  bị  dội  bom,  dân-chúng  bị  trục-
            xuất khỏi thành-thị đẩy về các vùng quê, gia-súc bị các họng
            súng liên-thanh tàn-sát, những túp lều bị đạn lửa thiêu rụi,
            tất  cả  những  cái  đó  được  mệnh  danh  là  công-cuộc  bình-
            định. Hằng triệu dân quê bị tước-đoạt tài-sản, đuổi ra khỏi
            nông-trại,  lê  bước  trên  những  con  đường  mà  không  được
            mang theo gì thêm, người ta gọi đó là hoán-chuyển dân-số,
            hay là chỉnh-trang ranh-giới. Những người bị cầm tù lâu năm
            không được xét-xử, hoặc bị bắn sau ót (gáy) hoặc bị gửi đi
            lao-động để rồi chết thảm-nhục trong các trại khai-thác gỗ
            miền  Bắc-cực,  người  ta  gọi  đó  là  loại-trừ  những  phần-tử
            khả-nghi. Người ta cần tới những lối nói như thế khi người ta
            muốn chỉ-danh sự-kiện nhưng lại không muốn gợi lên những
            thể-hiện tinh-thần của các sự-kiện ấy...

            ...  Kẻ  thù  lớn  nhất  của  ngôn-ngữ  trong  sáng  là  sự  không
            thành thực. Khi có một khoảng cách giữa sự thực với những
            mục-tiêu mà họ đã tuyên-bố, có thể nói là người ta tự-nhiên
            xoay sang những lời nói dài dòng và những thành-ngữ rỗng
            tuếch hệt như con cá mực để phọt chất mực ra ngoài. Trong
            thời chúng ta, không có những chuyện như vậy mà không
            dây-dưa đến chính-trị, và chính-trị tự nó là một mớ những
            sự  nói  dối,  tránh  né  lảng  chuyện,  lố-bịch,  hận-thù  và  tảo-
            điên. Khi bầu-khí chung tồi-tệ, ngôn-ngữ ắt bị tổn-thương.
            Tôi nghĩ là đã nghiệm ra rằng - đây là một ức-đoán mà tôi
            chưa  đủ  quảng-bác  để  xác-minh  -  trong  mươi,  mười  lăm



                                          379
   375   376   377   378   379   380   381   382   383   384   385