Page 38 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 38
38 Ñòa chí Quaûng Yeân
Bãi triều hiện đại chịu tác động của thủy triều: là các dạng tích tụ do động lực thủy
triều và nguồn bồi tích do sông chuyển từ lục địa ra vùng cửa sông. Hệ thống lạch triều do
dòng triều xâm thực, có chức năng hoàn lưu, vận chuyển nước và bồi tích để nuôi tạo các
bãi triều, phát triển phân nhánh dày đặc, chia cắt vùng triều thành các khu riêng biệt,
thậm chí thành “bãi đảo”. Các bãi triều hiện đại được chia thành bãi lầy sú vẹt và bãi triều.
Quanh khu vực phường Quảng Yên, kiểu địa hình này thường là các bãi bồi hạ lưu sông
còn chịu ảnh hưởng của thủy triều. Hình thái địa hình khá bằng phẳng, bị chia cắt mạnh
bởi hệ thống lạch triều dạng cành cây. Bãi chủ yếu được cấu tạo bởi cát, bột, bùn, sét.
2.4. Địa hình nhân sinh
Trên địa bàn thị xã Quảng Yên, hoạt động của cư dân nơi đây đã làm thay đổi địa hình
tự nhiên như quá trình khai thác khoáng sản, mở đường giao thông, công tác thủy lợi, đào
kênh mương, đắp đê ngăn lũ, xây dựng nhà cửa... Các hoạt động này tại địa bàn đã tạo ra các
dạng địa hình nguồn gốc nhân sinh gồm: hệ thống đê ngăn mặn, đê đầm nước lợ, đập, kênh đào...
3. Tiến hóa địa chất - địa mạo khu vực Quảng Yên và vùng lân cận
3.1. Thời kỳ trước Đệ tứ
Thị xã Quảng Yên nằm trong vùng cửa sông Bạch Đằng, địa hình được hình thành và
phát triển trên nền móng địa chất, tương ứng với thời kỳ địa chất tân kiến tạo và kiến tạo
hiện đại, bắt đầu từ thế Oligocen thuộc kỷ Paleogen, từ khoảng 32 triệu năm trước. Đến
cuối kỷ Neogen, đầu kỷ Đệ tứ, địa hình được nâng cao - bóc mòn. Các đặc điểm, hình dạng
địa hình bây giờ được tạo nên và giữ nét chính kể từ thế Pleistocene trong thời kỳ Đệ tứ.
Hầu hết diện tích thị xã Quảng Yên ngày nay đều mới được hình thành cách ngày
nay chưa lâu trong bối cảnh dâng lên và hạ xuống của mực nước biển.
3.2. Thời kỳ Đệ tứ
Thời gian Pleistocene
Thời kỳ Đệ tứ, thế Pleistocene kéo dài từ 2.588 triệu năm đến 11,7 nghìn năm trước, đó
là thời kỳ tập trung các kỳ băng hà và cũng là thời kỳ tồn tại các nền văn hóa đá cũ. Vào
các kỳ băng hà, mực nước đại dương hạ thấp trên trăm mét làm phơi cạn các vùng thềm
lục địa, khí hậu khô lạnh ở các vùng đóng băng, nhưng thường mưa lũ ở các vùng nhiệt
đới bây giờ. Do ảnh hưởng của hiện tượng băng hà và đặc điểm kiến tạo khu vực, hầu hết
địa phận thềm lục địa Việt Nam, trong đó có vịnh Bắc Bộ nằm trong môi trường lục địa.
Số lần biển tiến trong Pleistocene ở ven bờ Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau, quy
mô của các đợt biển tiến cũng chưa được thống nhất và chưa có tính thuyết phục. Tài
liệu hiện có cho thấy trong Pleistoce sớm và giữa không có dấu hiệu biển tiến vào khu
vực này. Vào nửa sau Pleistocene muộn, biển lẫn và tồn tại chế độ biển nông - châu thổ
ven bờ trên thềm lục địa vịnh Bắc Bộ, trong đó có liên quan tới khu vực Quảng Yên hiện
tại. Trầm tích liên quan đến đợt biển tiến này là hệ tầng Vĩnh Phúc phân bố khá rộng
rãi ở ven rìa đồng bằng Bắc Bộ, kể cả vùng Quảng Yên, Thủy Nguyên và Uông Bí. Trầm
tích này bắt đầu từ các lớp nguồn gốc ven vịnh, ven biển, chuyển dần thành đầm lầy
biển và kết thúc bằng các lớp trầm tích aluvi sông. Các thềm biển (vốn là các bãi biển
cổ được nâng cao) cao khoảng 10 - 15 m, được phát hiện ở Đồ Sơn, Uông Bí, Quảng Yên,
thành phố Hạ Long và đảo Cát Bà là các dấu tích liên quan đến đợt biển tiến này .
(1)
(1) Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên: Địa chí Thủy Nguyên, Nxb. Hải Phòng, Hải Phòng,
2015, tr.67.