Page 55 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 55

Phaàn I: Ñòa lyù töï nhieân, ñòa lyù haønh chính vaø daân cö    55



               dưỡng trong đất. Đá mẹ ở Quảng Yên đa số thuộc về các nhóm trầm tích vụn thô, trầm
               tích hóa học và các mẫu chất phù sa cổ, phù sa trẻ. Các đá trầm tích phân bố hạn chế ở
               đồi núi thấp; các mẫu chất phù sa phân bố rộng trên đồng bằng và vùng ngoài đê.

                  Đá mẹ trầm tích vụn thô ở Quảng Yên bị phong hóa khá mạnh mẽ về cả phong vật lý,
               phong hóa học và tạo ra các mẫu chất gồm tích tụ tàn tích (eluvi), sườn tích (deluvi) và
               dốc tụ (proluvi) chân sườn đồi và núi thấp. Có thể phân biệt hai loại mẫu chất theo màu
               sắc: loại màu nâu vàng, vàng nhạt phong hóa từ đá mẹ hệ tầng Dưỡng Động và loại nâu
               đỏ phong hóa từ đá mẹ hệ tầng Hà Cối. Tất cả các mẫu chất này đều cho một loại đất gọi
               là đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất (Fs).
                  Đá mẹ trầm tích vụn thô được chia làm 4 loại cơ bản: đá cuội kết và sạn kết, phân
               bố hạn chế thuộc hệ tầng Hà Cối (J hc); đá cát kết, phân bố phổ biến nhất, có màu
                                                      1-2
               xám sáng thuộc hệ tầng Dưỡng Động (D em - D dđ) hoặc màu nâu đỏ thuộc hệ tầng
                                                                   2e
                                                           1
               Hà Cối; đá bột kết, phân bố hạn chế hơn, có màu xám (hệ tầng Dưỡng Động) hoặc màu
               nâu đỏ (hệ tầng Hà Cối); đá phiến sét, phân bố hạn chế, màu xám đen thuộc hệ tầng
               Dưỡng Động.

                  Đá vôi

                  Đá vôi thuộc hệ tầng Tràng Kênh (D gv - D fm tk) ngoài thành phần chủ yếu nhất
                                                                 3
                                                         2
               là Canxi Cacbonat (CaCO ) còn có thành phần tàn dư gồm vật chất hữu cơ, khoáng vật
                                           3
               sét và khoáng vật thạch anh.
                  Quá trình phong hóa đá vôi để lại các sản phẩm tàn dư feralit. Tuy nhiên, khối tàn
               dư không lớn, thường bị nước bề mặt trôi cuốn, chỉ một số ít nằm lại các khe đá, hốc đá
               và tạo điều kiện cho một số loài thực vật chịu hạn phát triển hạn chế. Các loài này có rễ
               bám chắc vào khe đá, tạo ra quá trình phong hóa hóa học, sinh học trên khối núi đá vôi.

                  Kết quả phong hóa hóa học đá vôi Quảng Yên để lại núi đá, một số sản phẩm trong
               nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá - núi đá.
                  Đá vôi sét và đá silic

                  Trong các loại đá mẹ thuộc hệ tầng Tràng Kênh, ngoài đá vôi còn có một số loại đá
               mẹ khác như đá vôi sét và silic. Đá vôi sét, có khi lẫn cả đá phiến sét, có thành phần tàn
               dư gồm vật chất hữu cơ, khoáng vật sét và khoáng vật thạch anh. Quá trình hòa tan, để
               lại sản phẩm feralit tàn dư, nhiều chỗ có khối lượng mẫu chất lớn, hình thành nên tầng
               đất, thường có màu nâu vàng và vàng nhạt.

                  Đá vôi sét và đá silic nằm trong khối đá vôi đã phong hóa tạo thành loại đất nâu vàng
               trên đá vôi, mặc dù chiếm diện tích nhỏ, nhưng tham gia vào thành phần đa dạng hóa
               của thổ nhưỡng Quảng Yên.
                  1.2. Vai trò của phù sa

                  Phù sa cổ

                  Phù sa cổ là một trong những thành tố hình thành chất đất ở khu vực Quảng Yên.
               Lớp phù sa cổ thuộc về trầm tích của hệ tầng Vĩnh Phúc (Q vp) được tích tụ vào thời
                                                                                3
                                                                               1
               gian cuối Pleistocene muộn, khoảng trước 11,7 nghìn năm trước. Phù sa được tích tụ
   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60