Page 58 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 58

58    Ñòa chí Quaûng Yeân



               cơ giới khác nhau, từ cơ giới nhẹ đến trung bình, có nơi cơ giới nặng. Phần lớn đất đang
               được sử dụng để nuôi trồng thủy sản, phần còn lại là đất ngập mặn sú vẹt và đất hoang
               hóa. Nhóm đất mặn bao gồm:
                  Đất mặn sú vẹt, đước: phân bố ở các xã, phường ven biển, tập trung chủ yếu ở bãi
               triều phần ngoài đê, ở khu Đầm Nhà Mạc, Cái Tráp, Hà An, Hoàng Tân, Điền Công...
               Đất được hình thành do sự bồi đắp phù sa của sông và thủy triều. Thực vật là cây nước
               mặn (sú vẹt, măm...) sinh trưởng và phát triển tốt, có bộ rễ ăn sâu vào đất, có khả năng
               giữ đất nên bãi bồi sú vẹt ngày càng được mở rộng.

                  Đất mặn sú vẹt: hiện đang được sử dụng để nuôi trồng thủy sản và trồng rừng ngập
               mặn phòng hộ, một số do ngập triều chưa đưa vào khai thác sử dụng.

                  Đất mặn nhiều: phân bố chủ yếu ở ngoài đê, bị ngập triều thường xuyên và một phần
               thuộc vùng đệm không bị ngập. Loại đất này phù hợp để trồng rừng ngập mặn kết hợp
               với nuôi trồng thủy sản.
                  Đất mặn trung bình và ít: hình thành do phù sa lắng đọng, hầu hết các diện tích ít
               bị ảnh hưởng trực tiếp của nước mặn và lượng nước còn tích lũy trong đất. Đất có phản
               ứng chua, giàu mùn, đạm tổng số khá, lân tổng số trung bình, kali tổng số giàu. Thành
               phần cơ giới thịt nặng, hàm lượng sét cao.

                  2.2. Nhóm đất phèn
                  Nhóm đất này được hình thành ở những khu vực thấp, do sản phẩm phù sa với vật
               liệu sinh phèn, phát triển mạnh ở môi trường yếm khí, khó thoát nước. Thành phần cơ
               giới là thịt nặng, nhão dẻo khi ướt, cứng rắn, nứt nẻ khi khô, thường xuất hiện một lớp
               bột màu vàng đậm bám trên mặt hoặc trong các khe nứt. Nhóm đất này gồm hai loại:
               đất phèn hoạt động nông, sâu, mặn nhiều và đất phèn hoạt động nông, sâu, mặn ít.

                  2.3. Nhóm đất cát
                  Đất cát phân bố chủ yếu ở các xã ven biển, ven sông Minh Thành, Đông Mai, Tiền
               An. Nhóm đất cát được hình thành ven biển, ven các sông chính do sự bồi đắp chủ yếu
               từ sản phẩm thô với sự hoạt động trầm tích phù sa của các hệ thống sông, biển, nghèo
               dinh dưỡng, phản ứng chua yếu, khả năng trao đổi cation thấp. Gồm các loại đất sau:

                  Bãi cát ven sông, ven biển: có thành phần cơ giới nhẹ nhất, tỷ lệ cát >90%, cải tạo
               nuôi thâm canh thủy sản mặn lợ.

                  Đất cát biển: có độ phì thấp, song thích hợp với trồng các loại cây rau màu, thực
               phẩm. Ở chân vàn trung bình trồng 2 vụ màu và vụ lúa mùa. Ở chân vàn cao trồng
               chuyên màu.
                  Đất cát gley: có độ phì thấp, nằm ở địa hình thấp thoát nước kém, cần đầu tư hệ thống
               thủy lợi để có thể trồng hai vụ lúa.

                  2.4. Nhóm đất phù sa
                  Nhóm đất phù sa được hình thành từ sản phẩm bồi tụ chủ yếu của các con sông lớn,
               chia thành 3 loại:

                  Đất phù sa không được bồi: trung tính, ít chua (p), phân bố chủ yếu ở ven sông.
   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63