Page 736 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 736

736    Ñòa chí Quaûng Yeân



               tiểu học (gồm các lớp Enfantin, Préparatoire, Élémentaire), chương trình toán và khoa
               học chưa bằng trình độ tiểu học hiện nay, chỉ hơn ở môn sinh ngữ Pháp văn, được coi là
               một trong những môn chính. Thời kỳ phát triển nhất là năm 1939, có gần 200 học sinh
               và tạm đủ các lớp tiểu học, phần lớn là con của viên chức, thương nhân Quảng Yên, cai
               ký ở vùng mỏ và công chức tỉnh Hải Ninh. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, học sinh muốn
               học lên trung học phải về trường Bonnal Hải Phòng. Đối với con cháu của tuần phủ
               Quảng Yên, họ đều về trường Bưởi ở Hà Nội (nay là trường Trung học Phổ thông Chu
               Văn An) để học.
                  Trên địa bàn huyện Yên Hưng và thị xã Quảng Yên còn có một số trường học, lớp học
               khác như: La Khê, Yên Trì, Yên Đông, Phong Cốc, Lưu Khê... Các trường hương học La
               Khê, Yên Trì cũng lần lượt được thành lập, sau khi trường Quảng Yên được xây dựng.
               Tiếp đó, năm 1924, trường Yên Đông, Phong Cốc ra đời. Trường Yên Đông tiếp nhận học
               sinh 3 làng: Hưng Học, Hải Yến, Yên Đông. Số học sinh khoảng 35 đến 45 người, gồm 3
               lớp: Đồng ấu, dự bị và sở đẳng do thầy Trần Đức Tái dạy. Trường Phong Cốc tiếp nhận
               học sinh Phong Cốc, Cẩm La, số lớp và sĩ số như trường Yên Đông do thầy giáo Nguyễn
               Đình Xứng giảng dạy. Sau 2 trường Yên Đông và Phong Cốc, trường Lưu Khê tiếp tục
               được ra đời, thu nhận học sinh các xã hạ tổng Hà Nam . Ngoài ra, ở xã Sông Khoai còn
                                                                        (1)
               có một lớp dạy chữ Quốc ngữ tại đình Khoái Lạc với gần 20 học sinh, học chương trình
               sơ học yếu lược.
                  Bên cạnh đó, năm 1938, phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ phát triển mạnh, một số
               người đã đến thị xã Quảng Yên để theo học hết chương trình sơ học yếu lược và trở về
               làng dạy học. Trong đó, điển hình là ông giáo Ánh ở Vị Dương, ông giáo Thiện ở Vị Khê .
                                                                                                         (2)
                  Đến năm 1942, người Pháp cũng mở thêm một trường Tiểu học ở Hà Nam, gọi là
               trường Kiêm bị tổng Hà Nam, có tên là Ecole primaire complémentaire de Hanam (nay
               là trường Trung học Cơ sở Phong Hải), do thầy Phan Hữu Quảng giảng dạy. Trường thu
               nhận học sinh đã đỗ bằng Sơ học yếu lược ở các làng trong tổng Hà Nam vào lớp Nhì và
               lớp Nhất. Năm 1943, trường có lớp Nhì và 5 học sinh lớp Nhất (5 học sinh đã học lớp Nhì
               năm trước tại trường tư thục Ecole Chateaubriand chuyển về); cuối năm học, số học sinh
               lớp Nhất về Hải Phòng thi tốt nghiệp tiểu học.
                  Song song với các trường công lập, ở các làng còn một số trường tư, với những lớp học
               ghép đơn giản do các nhà Nho lên lớp. Ban đầu lớp dạy Nho văn là chính, Quốc ngữ là
               phụ. Dần dần các chương trình dạy Nho văn ít đi, chương trình dạy chữ Quốc ngữ tăng
               dần lên, đồng thời dạy thêm bảng cửu chương và các phép tính. Trong số các trường tư,
               tiêu biểu nhất là trường tư thục Ecole Chateaubriand do 3 anh em thầy giáo Nguyễn
               Văn Chính, Nguyễn Văn Mai và Nguyễn Thị Cúc thành lập, dạy từ lớp Đồng ấu đến lớp
               Nhì với khoảng 70 học sinh.

                  Tuy có một số trường như vậy nhưng số lượng học sinh có thể theo học được không
               nhiều. Ở trường công nơi tỉnh lỵ Quảng Yên, thời kỳ phát triển nhất cũng không quá
               200 học sinh, còn phần đa dân chúng vẫn phải chịu cảnh mù chữ.

               (1)  Hội Cựu giáo chức - Phòng Giáo dục và Đào tạo Yên Hưng: Kỷ yếu 65 năm xây dựng và phát triển
               sự nghiệp giáo dục huyện Yên Hưng (1945 - 2010), tháng 11/2011, tr.179.
               (2)  Ban Chấp hành Đảng bộ xã Liên Vị: Lịch sử Đảng bộ xã Liên Vị (1930 - 2020), sđd, tr.36.
   731   732   733   734   735   736   737   738   739   740   741