Page 738 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 738

738    Ñòa chí Quaûng Yeân



               Chính phủ, trong khi đó chính quyền tay sai ra sức tuyên truyền “giáo dục bình dân”
               giả hiệu nhằm mục đích tuyên truyền tư tưởng phản cách mạng, các lớp bình dân học
               vụ phải tổ chức bí mật, hoạt động khó khăn hoặc tạm dừng hoạt động, do vậy tình trạng
               mù chữ vẫn chưa được thanh toán triệt để. Tuy nhiên, ở một số nơi, các lớp bình dân học
               vụ vẫn được duy trì như: xóm 1 làng Yên Hưng (nay là phường Yên Giang), vùng xóm 5
               (làng cũ xã Hiệp Hòa), vùng Hoàng Lỗ (nay thuộc xã Hoàng Tân), vùng Khe Nữ (Đông
               Mai), vùng Yên Lập, Yên Cư, Dui Bản (Minh Thành).

                  Thị xã Quảng Yên - nơi quân Pháp chiếm đóng, lực lượng quân sự tập trung đông
               đúc, chiến sự ít xảy ra so với các vùng khác, nhiều gia đình vùng tranh chấp hoặc bị
               địch càn quét, vùng bị đại bác, máy bay oanh tạc đã gửi con em vào trong thành đi học,
               lánh nạn chờ thời. Trong khi đó, một số công chức, trí thức cũ không theo kháng chiến
               song cũng không cầm súng theo giặc đã chọn nghề dạy học. Tận dụng những điều kiện
               về thầy và trò, thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã thực hiện cái gọi là “viện trợ
               phát triển giáo dục”, lấy tiền “Mỹ quốc viện trợ” mở thêm lớp học tư, trường tư. Tại thị
               xã Quảng Yên, bên cạnh việc tu sửa lại trường Tiểu học công lập, trường tư thục Lê Quý
               Đôn cũng được thành lập, đây là trường Trung học bán cấp với 2 lớp đệ nhất, đệ nhị do
               chính quyền thân Pháp lập lên . Năm 1952, thực dân Pháp mở lại trường Trung học
                                                 (1)
               Trần Quốc Tuấn (trường Phổ thông cấp II Trần Quốc Tuấn) gồm các lớp đệ thành, đệ lực,
               đệ trí. Tuy nhiên, trường hoạt động đến năm 1954 thì đóng cửa .
                                                                                  (2)
                  Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến ngày Quảng Yên, Yên
               Hưng được hoàn toàn giải phóng (tháng 4/1955), ở những vùng địch tạm chiếm, phần
               lớn trẻ em vẫn không được đi học, trong khi ở thị xã, một số trường được Pháp và chính
               quyền tay sai lập ra với mục đích mị dân, giáo dục tư tưởng chống đối cách mạng. Thời
               kỳ này, phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hóa gặp nhiều khó khăn, kết quả còn
               hạn chế.
                  4. Giáo dục Quảng Yên giai đoạn 1955 - 1985

                  Sau khi quê hương được hoàn toàn giải phóng, ngoài việc tiếp quản, củng cố chính
               quyền mới và thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, cải tạo quan
               hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, lĩnh vực văn hóa - xã hội được các cấp ủy đảng, chính
               quyền đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.

                  Tháng 3/1955, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 (khóa II) quyết định tiến hành
               cải cách giáo dục lần thứ 2 nhằm củng cố giáo dục phổ thông, thống nhất hai hệ thống
               giáo dục của vùng tự do cũ và các vùng mới giải phóng. Đề án cải cách giáo dục lần thứ
               II được Chính phủ thông qua tháng 3/1956, bắt đầu được thực hiện từ năm học 1956 -
               1957. Theo đó, hệ thống giáo dục phổ thông được thay đổi từ hệ 9 năm thành hệ 10 năm,
               gồm 3 cấp: cấp I học 4 năm (từ lớp 1 đến lớp 4), cấp II học 3 năm (từ lớp 5 đến lớp 7), cấp
               III học 3 năm (từ lớp 8 đến lớp 10). Cuối cấp I thi hết cấp, cuối cấp II, III thi tốt nghiệp.
               Trẻ em phải học lớp vỡ lòng trước khi vào lớp 1.

               (1)  Xem Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng Ninh, tập 3, sđd, tr.400-401.
               (2)  Hội Cựu Giáo chức - Phòng Giáo dục và Đào tạo Yên Hưng: Kỷ yếu 65 năm xây dựng và phát triển
               sự nghiệp giáo dục huyện Yên Hưng (1945 - 2010), tháng 11/2011, tr.14.
   733   734   735   736   737   738   739   740   741   742   743