Page 69 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 69
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
"Tòa án quân sự đặc biệt Sài Gòn, thiết lập chiếu theo luật số
10/59, họp từ mùng 5 đến đêm mùng 8-7-1963, xử 19 quân nhân bị
giam và bị buộc trọng tội "phản nghịch". Nhưng Tòa chỉ lên án tối
đa là 18 năm khổ sai (thiếu tá Phạm Trọng Chinh). Có 6 quân nhân
được tha bổng.
- Vẫn Tòa án Quân sự đặc biệt đó, họp từ sáng mùng 9 đến đêm
11-7-196, xử 34 dân sự bị giam và bị buộc tội "xâm phạm an ninh
quốc gia", trừ ông Phan Quang Đán bị buộc tội "tòng phản
nghịch". Đúng lý còn có ông Nguyễn Tường Tam (được tại ngoại)
nhưng ông Tam đã uống thuốc độc tự tử ngày "song thất" 7-7-
1963. Tòa lên án nặng nhất là 8 năm cấm cố (ông Phan Khắc Sửu),
7 năm cấm cố (ông Phan Quang Đán) và 6 năm cấm cố (ba ông Vũ
Hồng Khanh, Bùi Lượng, Phan Bá Cầm),v.v... Có 14 người được
tha bổng, kể luôn ông Nguyễn Tường Tam (chứ không phải là
công tố quyền bị tiêu diệt).
- Vẫn Tòa án Quân sự đặc biệt ấy, họp sáng hôm 12-7-1963, xử
9 bị can tại đào gồm 7 quân nhân và 2 dân sự bị buộc tội "phản
nghịch". Tòa tuyên bố tử hình khiếm diện cả 9 người (7 quân nhân
là đại tá Nguyễn Chánh Thi, trung tá Vương Văn Đông, các thiếu
tá Trần Văn Đô, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Huy
Lợi, Nguyễn Đức Tuấn; 2 dân sự là Hoàng Cơ Thụy và Nguyễn
Bảo Toàn, sự thực ông Toàn đã bị ông Nhu sai mật vụ đem đi xiết
cổ trôi sông từ ngày 3-1-1963).
- Vẫn Tòa án Quân sự đặc biệt tiếp tục họp hôm 12-7-1963, xử
vụ "xâm phạm an ninh quốc gia" hồi tháng 8-1960 và lên án 6 năm
cấm cố (Phạm Đình Nghị, Vũ Văn Lý), 5 năm cấm cố (Khuất Duy
Hải), tha bổng 5 người.
- Tòa án Quân sự thường Sài Gòn, họp ngày 11 và 12-7-1963,
xử 19 dân sự gồm 16 ông "Caravelle" thêm 3 ông Nguyễn Xuân
Chữ, Hồ Văn Nhựt, Trần Bá Nhựt về tội "phá rối cuộc trị an",
truyền tha bổng tất cả. (84).
Ai cũng nói rằng mọi hình phạt đều do ông Nhu quyết định tối
hậu.
IV.- Sách lược tránh né giao tranh với Việt cộng
Với tình hình nội bộ bất an như vừa kể, cộng thêm việc cộng
68