Page 71 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 71
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
kể:
"Hôm 5-10-1962, một cuộc hành quân ở gần Đồng Tháp
Mười, phiá Tây tỉnh Mỹ Tho, bất ngờ bị Việt cộng ẩn núp dưới
những lùm cây chống trả mãnh liệt, làm cho 20 Biệt kích quân
(Rangers) của sư đoàn 7 bị tử trận và 40 người bị thương... Những
con số ấy không cao lắm, song chính đại tá Huỳnh Văn Cao bị
Tổng thống Diệm gọi về Sài Gòn mắng cho một trận nên thân, sau
khi đã phải ngồi đợi suốt ngày, không ai mời ăn cơm trưa... Diệm
mắng Cao rằng đã quá nghe lời những cố vấn Mỹ để làm những
cuộc hành quân tấn công, khiến quân lính bị thiệt mạng quá nhiều.
Nếu Cao muốn được thăng tướng và làm tư lệnh một vùng chiến
thuật, thì từ nay phải cẩn thận hơn. Cao bị đuổi về căn cứ không
cơm tối.
Rồi Hoàng Cơ Thụy đưa ra nhận định gồm hai điểm chính như
sau:
"Nói tóm lại, từ năm 1958 đến 1963 tức là trong 6 năm trời,
quân đội chính quy VNCH đã bị cầm chân bởi hai chính sách sai
lầm của Diệm-Nhu là:
1.- Diệm-Nhu chọn các cấp chỉ huy trong những tướng tá có
tiêu chuẩn (3-C) là Cần Lao, Công Giáo, Centre-Việt Nam, và
trước hết là "triệt để trung thành" với nhà Ngô, chứ không phải là
vì tài năng thao lược.
Sự bất công ấy gây bất mãn trong mọi cấp quân nhân, khiến
quân đội mất hẳn tinh thần chiến đấu.
- Xin nhắc lại vụ tướng Cao Đài ly khai Trình Minh Thế bị Ngô
Đình Nhu sai người ám sát ngày 3-5-1955, chỉ vì thân với
Lansdale và có thể sẽ tranh chỗ với Ngô Đình Diệm, như
Macsaysay ở Phi Luật Tân (86).
- Riêng về ông Dương Văn Minh, sau khi dẹp xong Bình Xuyên
và Hòa Hảo thì được thăng thiếu tướng rồi trung tướng, nhưng chỉ
được làm tư lệnh "Bộ Hành Quân", rồi chức "cố vấn quân sự cho
Tổng thống" tức là những chức vị không nhiệm sở, chỉ "ngồi chơi
xơi nước" (Trần Văn Đôn, Việt Nam Nhân Chứng, 1989, sđd, tr.
148)
2.- Diệm-Nhu còn ra lệnh cho các tướng, tá, úy cầm quân ở mọi
mặt trận, phải né tránh giao tranh với Việt Cộng để giảm thiểu tổn
70