Page 8 - C:\Users\Admin\Desktop\LSDB QTien, LCOT\
P. 8

trọng chạy qua, đất rừng không còn nữa, thổ nhưỡng ngày càng bị sói mòn, lượng

               mưa phân bổ không đều trong năm, nguồn nước mới chỉ đủ cung cấp cho 70% diện
               tích canh tác. Đây là những khó khăn đặt ra cho Quang Tiến thực hiện công tác
               điều tra quy hoạch cơ bản, cho việc bồi đắp tự nhiên trong giai đoạn mới.
                    Quang Tiến hiện nay có 15 thôn gồm các thôn: Chính Ngoài, Chính Trong,

               Thành Lập, Tân Lập, Minh Sinh, Công Thành, Cầu Trấn, Non Dài, Cầu Đen, Trại
               Han, Sậu 1, Sậu 2, Đồng Đồi, Đồng Sào 1, Đồng Sào 2.Trung tâm của xã đóng tại
               phần đất Non Dài trên trục đường 294. Trong xã có các dân tộc anh em đang chung
               sống là  Kinh, Tày, Khơ Me, Nùng, Hoa, Mường. Người Kinh đông nhất chiếm
               99%, dân tộc ít người chiếm 1% chủ yếu ở 2 thôn Đồng Sào, Chính Ngoài và Non

               Dài xen kẽ với các dân tộc anh em khác.
                    Tốc độ phát triển dân số của Quang Tiến cũng tăng khá nhanh qua các năm,
               trong điều kiện của một xã nông nghiệp, dân cư ở nông thôn thu nhập bình quân
               đầu người còn thấp thì việc tăng dân số là việc khó khăn cho việc thực hiện chính

               sách xã hội và phát triển kinh tế, đòi hỏi phải tiếp tục có biện pháp đồng bộ để hạ
               tỷ lệ phát triển dân số, nhằm tập trung nguồn lực để xây dựng xã và nâng cao đời
               sống của nhân dân.
                    Vùng đất Quang Tiến đã được hình thành từ lâu, nhưng đến cuối thế kỷ 18
               đầu thế kỷ 19 mới có dân cư đến nhưng còn rất thưa thớt, mãi tới cuối thế kỷ 19
               dân cư mới tập trung thành làng gọi là làng Ninh, có khoảng 40 hộ, 200 khẩu và

               một số hộ rải rác không đáng kể.
                    Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công nước ta, nhằm đối phó với cuộc
               xâm lược của thực dân pháp, triều đình nhà Nguyễn đã cho xây dựng thành Tỉnh
               Đạo. Tiếp đó vào năm 1866, Quận Tường cùng  quân của ông đã kéo về căn cứ

               Núi Rền, Trại Han đẻ khai khẩn đất đai, tính kế lâu dài chống lại thực dân pháp và
               nghĩa quân triều đình. Quận Tường và nghĩa quân của ông đã được nhân dân che
               chở và giúp đỡ. Do không thuyết phục được Quận Tường về hàng, triều đình nhà
               Nguyễn đã sai Tôn Thất Thuyết kéo quân lên Yên Thế bao vây căn cứ Núi Rền,
               Trại Han. Do thế cùng lực kiệt Quận Tường đã rút gươm tự tử, kết thúc cuộc khởi

               nghĩa kéo dài 9 năm (1866-1874). Ngày nay, nhân dân ở vùng này còn lưu truyền
               câu nói khẳng khái của ông:
                                                 Chí tôi muốn dựng non sông
                                              Cứu dân ra khỏi cái vòng khổ đau

                                                 Về hàng thân kiếp ngựa trâu
                                             Trăm năm liệu có cất đầu được lên
                    Tiếp đó năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm nước ta lần thứ hai. Triều đình
               nhà Nguyễn đã phân công Nguyễn Cao là một danh tướng thời nhà Nguyễn, cùng
               với Hoàng Văn Hòe lên xây dựng và củng cố Tỉnh Đạo để đề phòng Bắc Ninh thất
                   1
               thủ .           Nằm giữa vùng núi Yên Thế rộng lớn, Thành Tỉnh Đạo án ngữ con


               ( ) Ông Tán Cách Bi – Trang 17
                1
               (2) Lịch sử Hà Bắc trang 117
                                                             5
   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13