Page 38 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 38

sau đóng được lĩnh thẻ đỏ . Như vậy, qua từng đợt cải cách chế độ
                                       (1)
            thuế, số tiền thuế người dân phải đóng ngày càng tăng.

               Cùng với thuế đinh, thuế điền thổ là một loại thuế trực thu. Vào
            thời nhà Nguyễn, thuế điền chủ yếu nộp bằng hiện vật, mức thuế
            không quá cao. Ruộng đất được chia thành các loại công điền, tư điền.
            Mỗi loại ruộng đều có 3 hạng: hạng nhất - thượng đẳng điền, hạng nhì -
            trung đẳng điền, hạng ba - hạ đẳng điền. Biểu thuế ruộng thay đổi
            theo từng vùng và mức đóng khác nhau đối với ruộng công và ruộng tư.
            Năm 1875, thuế ruộng từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, ruộng công: hạng nhất
            thóc thuế 80 thưng , hạng nhì 56 thưng, hạng ba 33 thưng; ruộng tư:
                               (2)
            hạng nhất 26 thưng, hạng nhì 20 thưng, hạng ba 13 thưng” . Đến
                                                                         (3)
            năm 1897, chính quyền thực dân ban hành nghị định quy định cụ thể
            mức thuế đối với từng loại ruộng đất, trong đó mức thuế với ruộng
            hạng nhất là 1,5 đồng/mẫu/năm, hạng nhì là 1,1 đồng, hạng ba là 0,8
            đồng. Đồng thời, thống nhất đơn vị đo mỗi thước bằng 0,4m, do vậy
            diện tích mỗi mẫu giảm từ 4.790m  còn 3.600m . Mức thuế tăng cùng
                                                           2
                                              2
            với việc điều chỉnh đơn vị đo khiến số tiền đóng thuế điền Nhân dân
            phải đóng tăng gấp 2 - 3 lần so với trước .
                                                    (4)
               Ngoài thuế, bọn quan lại cường hào còn dùng mọi thủ đoạn để áp
            bức, bóc lột, cướp đoạt tài sản, ruộng đất của dân nghèo. Trong xã hội,
            đại đa số dân chúng là nghèo khổ nhưng lại có những tên địa chủ giàu
            “nứt đố đổ vách” như gia đình 5 anh em Vương Đắc Thiệu ở làng So
            giàu có nhất trong vùng và được xếp vào loại giàu thứ 18 ở Bắc Kỳ.
            Cả năm anh em đều mua chức Hàn lâm và là nghị viên hàng tỉnh.
            Chúng là địa chủ kiêm tư sản, dựa vào thế Tây và bọn quan thầy để
            bóc lột Nhân dân mà trở nên giàu có. Ở ngay làng So, 90% ruộng đất
            là của chúng, ngoài ra chúng còn có 405 mẫu ruộng ở làng Yên Nội và
            lập ấp ở Trại Kèn, Khổng Mục (Hòa Thạch) với hàng trăm héc-ta đất
            trồng trọt và một ấp ở ngoại thành Hà Nội với diện tích trên 300ha.
            Ngoài những địa chủ nổi tiếng này, còn có một số địa chủ quan lại đã
            về hưu có tiếng tăm như Huyện Cân (Cấn Xá), Huyện Bật (Bương)...
            Mỗi tên đều có hàng trăm mẫu ruộng đất trở lên. Chúng bóc lột bằng
            cách phát canh, thu tô, thuê mướn nhân công. Có tên còn kiêm cả việc


            (1)  Một đồng bạc này trị giá bằng 60kg thóc (năm 1940).
            (2)  Đơn vị đo thưng bằng 1 lít.
            (3)  Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập 8, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.132.
            (4)  Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1945), phần 2, Nxb. Giáo dục,
            2001, tr.104.

            38
   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43