Page 47 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 47
mỗi suất được 3 sào, từ 61 tuổi trở lên mỗi suất được 1 sào
gọi là ruộng lão điền. Khi quân cấp thì hương lý, kỳ hào từ
tiên chỉ, lý trưởng đến các huynh thứ căn cứ vào thứ tự chỗ
ngồi (mâm nhất, mâm nhì...) được tự do nhận phần ruộng
của mình; tiếp đó từ 60 tuổi trở xuống thì 60 tuổi nhận trước,
59 tuổi nhận sau cho đến hết. Còn lại những người trai trẻ
vừa đến tuổi 18 gọi là “cùng đinh” thì không được tự nhận
mà phải do lý trưởng tập hợp các mảnh đầu thừa, đuôi thẹo
cấp cho mỗi người, có người phải nhận từ 5 - 7 mảnh mới đủ
phần ruộng được cấp. Theo quy định 3 năm cấp lại một lần,
nhưng bọn hào lý luôn tìm cách trì hoãn niên hạn cấp điền
vì các loại ruộng tốt chúng đều giành cho bút điền, trừ điền.
Mỗi tên lý dịch còn gian lận từ 5 - 7 suất cấy ăn không. Bằng
những thủ đoạn tinh vi, chúng đã biến dần ruộng công thành
ruộng tư, làm cho diện tích công điền ngày càng thu hẹp.
Đến trước năm 1945, số ruộng đất công để cấp cho dân chỉ
còn bằng một nửa số diện tích canh tác trong xã. Với chính
sách ruộng đất bất bình đẳng nói trên, người dân 5 xã chưa
bao giờ có đủ ruộng đất để cấy cày. Một số gia đình vì quá
túng bấn đã phải bán hoặc cầm cố số ruộng đất ít ỏi của mình
để lấy tiền nộp sưu thuế hoặc lo những việc đại sự xảy ra
như ốm đau, ma chay, cưới xin... Để duy trì cuộc sống, người
nông dân thiếu ruộng buộc phải nhận ruộng của bọn cường
hào, địa chủ, của nhà chung, nhà thờ... để cấy rẽ, nộp tô. Tô
có hai loại: Tô rẽ và tô đong . Đời sống đã quá khó khăn
(1)
(2)
do thiếu ruộng đất, người dân các xã còn phải gánh chịu biết
bao nhiêu khoản đóng góp hết sức nặng nề như: thuế thân,
(1 ) Tô rẽ là người nông dân cấy cày chăm bón đến mùa rẽ đôi (nông dân
một, chủ ruộng một).
(2) Tô đong là đến mùa, người nông dân nộp tô bằng thóc theo văn tự đã
cam kết bất kể lúa tốt hay xấu, hoặc mất mùa do thiên tai, sâu bệnh.
47

