Page 31 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 31
Phần thứ nhất: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ, H NH CHÍNH 23
Cấu tạo của dải than là cấu tạo của một địa hào, được giới
hạn bởi các đứt gãy gần phương vĩ tuyến. Móng của các trầm
tích chứa than chủ yếu là các trầm tích Cacbon - Pecmi.
Trầm tích chứa than tạo nên một hệ thống nếp uốn đều đặn,
thường có dạng đẳng thước hoặc hơi kéo dài, chủ yếu có
phương gần vĩ tuyến, một số cấu tạo nếp uốn có phương kinh
tuyến. Các cấu tạo uốn nếp bị làm phức tạp thêm bởi hệ
thống đứt gãy theo phương vĩ tuyến và kinh tuyến.
Từ mô tả trên cho thấy, các vật liệu thải của các khu khai
thác than trong hệ tầng chủ yếu vẫn là vật liệu hạt thô,
lượng bột sét chiếm tỷ lệ nhỏ. Sản phẩm vỏ phong hóa
thường là litoma hoặc saprolit với bề dày hạn chế.
Hệ tầng Hà Cối (J1-2 hc) có tuổi Jura, phân bố ở phần gần
thượng nguồn của các nhánh phía tây sông Diễn Vọng, gồm
các đá của có độ bền vững cao, bị phong hóa yếu, tạo nên địa
hình sườn vách dốc đứng với quá trình động lực hiện đại chủ
yếu là đổ lở. Khả năng cung cấp vật liệu cho dòng chảy yếu.
Hệ tầng được chia thành 2 phân hệ tầng có thành phần
khác biệt nhau:
Phân hệ tầng dưới gồm chủ yếu các thành tạo hạt thô
như cuội kết, sạn kết thạch anh phân lớp dày xen các lớp
mỏng cát kết, bột kết màu nâu đỏ, dày 200 - 300 m.
Phân hệ tầng trên gồm chủ yếu các đá hạt mịn như cát kết
hạt vừa, bột kết, sét kết màu nâu đỏ, nâu tím, dày 300 - 350 m.
Bên cạnh đó, còn có các thành tạo Kainozoi phân bố chủ
yếu khu vực ven biển, gồm các trầm tích Miocen đến hiện
đại. Các thành tạo Holocen phân bố ở phần địa hình thấp
quanh và trong phạm vi đông bắc Mông Dương. Trầm tích
Holocen hạ - trung phân bố trên các thềm biển cao 3 - 5 m,