Page 375 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 375

Phần thứ hai: LỊCH SỬ                                            357


                 Tuy nhiên, sự mở rộng về quy mô và kỹ thuật không đi
             liền với việc nâng cao đời sống cho công nhân. Để xoa dịu
             phong trào  đấu tranh của công nhân, thực dân Pháp  đã
             ban hành Nghị định ngày 30/3/1926 và 19/7/1927 về thanh

             tra lao  động, Nghị  định ngày 25/10/1927 về chế  độ lao
             động... Lần đầu tiên chính quyền thuộc địa của Pháp thừa
             nhận chức danh Thanh tra lao động là đại diện cho quyền

             lợi của người lao  động, nhưng  đồng thời quy  định người
             này phải là một viên chức từng làm việc cho Pháp ít nhất
             10 năm chứ không phải do người lao  động bầu ra . Nghị
                                                                         1
             định ngày 25/10/1927 được xem là một bước tiến bộ vì cho

             phép người lao động ngày làm 10 giờ, mỗi tuần được nghỉ
             1 ngày nhưng lại không áp dụng với công nhân mỏ vì họ
             được tính là  “lao động tự do”. Để ngăn tác động của nghị
             định  đó, các chủ mỏ  đã thay  đổi chế  độ làm việc, từ tính

             theo ngày sang làm khoán.
                 Chính vì vậy, phong trào đấu tranh của công nhân than
             nói chung, công nhân Cẩm Phả nói riêng tiếp tục phát

             triển sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Số lượng công
             nhân ngày càng đông đảo khiến họ trở thành một lực lượng
             xã hội to lớn, vừa hòa cùng phong trào  đấu tranh chung
             của dân tộc, vừa tiến hành đấu tranh với những hình thức

             và mục tiêu riêng. Điều đáng nói là số công nhân mỏ được
             bổ sung trong thời kỳ này có cả những công nhân từng làm
             việc ở các nhà máy, xí nghiệp hoặc địa phương khác bị đuổi

             việc. Ví dụ như sau cuộc bãi công của công nhân Nhà máy
             _______________

                 1. Xem Cao Văn Biền: Công nghiệp than Việt Nam 1888 - 1945, Sđd,
             tr.184.
   370   371   372   373   374   375   376   377   378   379   380