Page 3 - 27.9 Sách trai Cầu Vồng Yên thế
P. 3

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHÂN DUNG VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI

                                             TÂN YÊN TRONG LỊCH SỬ


                        I. TÂN YÊN – YÊN THẾ HẠ, BỘ PHẬN CHỦ YẾU CỦA YÊN THẾ XƯA

                        Thời Trần (thế kỷ thứ XIII-XIV) Yên Thế là tên huyện sau đổi thành “Yên

                  Viễn” ý nói là vùng đất hoang vắng xa kinh thành) thuộc lộ Như Nguyệt Giang.
                  Thời nhà Minh sang xâm lược đổi “Yên Viễn” thành “Thanh Yên”  thuộc châu

                  Lạng Giang, thời Lê Quang Thuận (1460-1469) huyện chính thức trở thành tên

                  gọi  Yên  Thế  và  lần  đầu  tiên  Yên  Thế  xuất  hiện  trong  sách  Dư  địa  chí  của
                  Nguyễn Trãi “huyện Yên Thế có tên nỏ và vôi….”. Sang thời nhà Nguyễn (năm

                  Minh Mệnh thứ 13-1831) tiến hành cải cách hành chính nhưng tên huyện Yên
                  Thế vẫn giữ nguyên cho đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945.


                        Yên  Thế  xưa  là  vùng  đất  cổ,  vùng  rừng  núi  rậm  rạp  hiểm  trở  đầy  lam
                  trướng nghìn trùng. Nhưng Yên Thế cũng là vùng đất giầu có lâm lộc từ rừng,

                  đất đai mầu mỡ, nguồn nước từ sông, suối, ao, hồ dồi dào, vì vậy Yên Thế sớm

                  thu hút nhiều luồng dân cư khắp các tỉnh ở Bắc Kỳ về đây cư trú khai phá mưu
                  sinh. Nhiều văn thần, võ tướng, sĩ phu yêu nước khi gặp biến loạn trong nước đã

                  về dây lánh nạn, nuôi trí, chờ thời. Bởi vậy cũng đã từ rất sớm trong dân gian đã
                  có câu “sấm” truyền rằng “Tiểu loạn cư Thăng Long, Đại loạn cư Yên Thế”

                  nghĩa là khi đất nước có loạn lớn chỉ có tìm về vùng Yên Thế mới yên ổn.

                        Về mặt cơ cấu hành chính, đến cuối thế kỷ 19 Yên Thế có 11 tổng và giữ

                  nguyên cho đến trước Cách mạng tháng 8/1945. Ngày 06/11/1957 huyện Yên

                  Thế cũ được tách làm 2 huyện mới, phần đất phía Bắc (miền thượng) vẫn giữ
                  nguyên tên gọi Yên Thế (tức Yên Thế thượng). Phần đất phía nam (miền hạ) có

                  tên là huyện Tân Yên (tức Yên Thế hạ). Khi chia tách thì 8/11 tổng của Yên Thế

                  cũ nằm về đất Tân Yên đó là các tổng: Tổng Nhã Nam, Lan Giới, Mục Sơn, Tuy
                  Lộc Sơn, Yên Lễ, Quế Nham, Ngọc Cục, Vân Cầu. Một đặc điểm nữa là ở thời

                  kỳ huyện Yên Thế cũ đã qua nhiều lần thay đổi địa điểm đặt lỵ sở (huyện lỵ) từ
                  Lăng Cao (Cao Xá) đến Hữu Mục (Mục Sơn) rồi Phủ Mọc (Cao Thượng) đến

                  Tỉnh Đạo (Quang Tiến) về Đồi Phủ (Nhã Nam). Các địa điểm trên đều nằm trên

                  vùng đất Yên Thế hạ tức Tân Yên ngày nay.

                        II. TÂN YÊN – YÊN THẾ HẠ, VÙNG ĐẤT GIÀU TRUYỀN THỐNG LỊCH
                  SỬ VÀ VĂN HÓA


                        Lịch sử vùng Yên Thế xưa nói chung và Tân Yên - Yên Thế hạ nói riêng




                                                               3
   1   2   3   4   5   6   7   8